I. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn coi trọng phát triển khoa học và công nghệ (KH-CN). Năm 1996, sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã thông qua Nghị quyết về: “Định hướng chiến lược phát triển KH-CN trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”. Trong bối cảnh đất nước vừa bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (KT-XH), nhưng Việt Nam vẫn còn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất - kinh doanh thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu, Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) ra đời đã định hướng và tạo cơ sở quan trọng cho sự phát triển của nền KH-CN nước nhà, từng bước phát huy vai trò động lực đối với sự phát triển KT-XH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Sau 16 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và các nội dung về phát triển KH-CN trong các nghị quyết Đại hội của Đảng, với tinh thần “khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển KT-XH”, KH-CN nước ta đã có bước tiến đáng kể, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những kết quả chủ yếu về phát triển KH&CN bao gồm:
1. Hệ thống pháp luật, chính sách về KH-CN ngày càng được hoàn thiện, lấp dần các khoảng trống pháp luật tồn tại nhiều năm trước đây, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động KH-CN. Đến nay, đã có 8 đạo luật chuyên ngành và hệ thống các văn bản hướng dẫn, điều chỉnh toàn diện các lĩnh vực KH-CN; Chính phủ đã ban hành khá đồng bộ các cơ chế, chính sách thông qua việc xây dựng và phê duyệt các chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án về phát triển KH-CN.
2. KH-CN đóng góp quan trọng, thiết thực phục vụ CNH, HĐH đất nước
Khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định các đường lối, chủ trương của Đảng qua các kỳ Đại hội; làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước; phục vụ đổi mới hệ thống chính trị, xác định rõ mô hình phát triển kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện hệ thống luật pháp; góp phần to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát huy giá trị của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; duy trì ổn định chính trị xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước (2). Các nghiên cứu về khoa học nhân văn cũng góp phần quan trọng khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, các hệ giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam, khẳng định chủ quyền quốc gia và tính toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng và phát huy nhân tố con người trong chiến lược phát triển KT-XH đất nước.
Khoa học tự nhiên, tập trung nghiên cứu cơ bản, tạo cơ sở khoa học và triển vọng hình thành một số lĩnh vực KH-CN đa ngành mới về vũ trụ, y sinh, tính toán, môi trường, biển, nano, hạt nhân(3). Các nghiên cứu định hướng ứng dụng đã tạo ra các kết quả nổi bật trong lĩnh vực công nghệ nano, tế bào gốc, giải mã bộ gen người; làm rõ các giá trị tài nguyên thiên nhiên, điều kiện tự nhiên, khí hậu, môi trường, đóng góp thiết thực cho phát triển KT-XH, dự báo và hạn chế hậu quả thiên tai và biến đổi khí hậu. Bước đầu đã hình thành được một số nhóm nghiên cứu mạnh. Một số lĩnh vực nghiên cứu cơ bản đã được quan tâm đầu tư đúng mức. Việt Nam đã có thứ hạng khá cao trong khu vực về lĩnh vực nghiên cứu toán học, vật lý...
Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã có đóng góp tích cực thúc đẩy ứng dụng và đổi mới công nghệ trong các ngành, lĩnh vực KT-XH, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, cải thiện tốc độ tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế(4). Trong 5 năm gần đây, số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ tăng 6 lần so với giai đoạn 1996-2000 và gấp 2 lần giai đoạn 2001-2005.
- Trong lĩnh vực công nghiệp, việc ứng dụng và đổi mới công nghệ đã góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp tăng trưởng cao liên tục. Có thể kể tới một số kết quả điển hình: làm chủ công nghệ thiết kế, chế tạo hệ thống thiết bị cơ khí thủy công cho các nhà máy thủy điện công suất lớn; giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90m nước phù hợp với điều kiện Việt Nam (5); giàn chống tự hành phù hợp đối với điều kiện địa chất các vỉa có độ dốc đến 350 tại vùng Quảng Ninh; công nghệ luyện thiếc chất lượng cao; công nghệ sản xuất thuốc tập hợp tuyển quặng Apatit loại III Lào Cai; nghiên cứu làm rõ tiềm năng dầu khí và chính xác hoá trữ lượng dầu khí toàn khu vực thềm lục địa và lãnh thổ Việt Nam; phát triển công nghệ khai thác dầu trong đá móng nứt nẻ…
- Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, KH-CN đã đóng góp tới 30% giá trị gia tăng trong tăng trưởng nông nghiệp, giúp Việt Nam gia tăng giá trị sản lượng nông - lâm - thủy sản xuất khẩu lên mức gần 20 tỷ USD/năm. Trong 5 năm gần đây, các nhà khoa học Việt Nam đã tạo được hơn 142 giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng cao, trong đó, đã chọn tạo và tuyển chọn được gần 100 giống lúa mới, đưa năng suất lúa bình quân cả nước đạt trên 52,3 tạ/ha năm 2010, đứng đầu Đông Nam Á. Hoạt động KH-CN cũng có đóng góp rất có hiệu quả trong phát triển các cây công nghiệp quan trọng, có giá trị xuất khẩu lớn như cao su, cà phê, điều, hồ tiêu, chè, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Trong nuôi trồng thuỷ sản, Việt Nam đã làm chủ được hầu hết công nghệ sản xuất giống các loài cá nước ngọt và một số loài hải sản giá trị cao (cá tra, cá ba sa, tôm sú), giúp thủy sản trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn; nhiều giống gia súc, gia cầm mới có năng suất cao đã được tạo ra.
- Trong lĩnh vực thông tin và truyền thông, hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin đã góp phần đưa ngành công nghiệp công nghệ thông tin và hạ tầng viễn thông phát triển vượt bậc. Trong bảng xếp hạng viễn thông châu Á, thị trường viễn thông Việt Nam đã được xếp thứ 13 cả về quy mô và tốc độ phát triển trên 3 lĩnh vực: cố định, di động và Internet. Công nghiệp công nghệ thông tin có tốc độ phát triển trung bình 20-25%/năm, đạt tổng doanh thu khoảng 6-7 tỷ USD vào năm 2010. Hiện nay, đã có những giải pháp an toàn, an ninh mạng hiệu quả được cộng đồng quốc tế công nhận.
- Trong lĩnh vực giao thông, xây dựng, đã làm chủ các công nghệ tiên tiến trong thiết kế, giám sát, thi công, xây lắp các công trình giao thông, xây dựng có quy mô và trình độ công nghệ ngang tầm với các nước trong khu vực; công nghệ thiết kế, chế tạo các loại vật liệu xây dựng mới, thiết bị; tiếp cận và làm chủ các công nghệ đúc hẫng cân bằng thi công cầu bê tông dự ứng lực khẩu độ lớn, công nghệ thi công cầu treo và cầu dây văng nhịp lớn, công nghệ xây dựng dạng kết cấu vòm thép nhồi bê tông, công nghệ xây hầm đường bộ, công nghệ cọc đất gia cố xi măng trong xây dựng cảng biển, sân bay; làm chủ công nghệ đóng tàu biển từ 6.500 đến 53.000 tấn, tàu chở dầu thô 115.000 tấn, kho nổi chứa dầu thô 150.000 tấn.
- Trong lĩnh vực y - dược, các thành công trong lĩnh vực ghép tạng là bước tiến lớn trong ngành y tế Việt Nam có sự đóng góp quan trọng của KH-CN. Trong nghiên cứu tế bào gốc, đã làm chủ được quy trình phân lập, bảo quản tế bào gốc từ tuỷ xương, máu ngoại vi, vùng rìa giác mạc và bước đầu ứng dụng thành công trong điều trị các bệnh xương, khớp, ung thư, nhồi máu cơ tim, nhãn cầu, bỏng. Nhiều kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán và điều trị được ứng dụng thành công như siêu âm, phẫu thuật nội soi, giải trình tự gen, siêu âm mạch, kỹ thuật nuôi cấy tinh tử... Y học cổ truyền cũng đã có bước phát triển quan trọng trong việc ứng dụng công nghệ cao để sản xuất nhiều loại thuốc quý có nguồn gốc từ thảo dược trong nước phục vụ khám, chữa bệnh cho nhân dân.
Ngành dược đã nghiên cứu và sản xuất thành công 10 loại vắc xin (trong đó có vắc xin phòng bệnh tiêu chảy, viêm gan B và A, viêm não Nhật Bản, phòng bệnh tả) phục vụ tốt Chương trình tiêm chủng mở rộng và tiết kiệm cho ngân sách nhà nước hàng trăm tỷ đồng; bước đầu tiếp cận với các công nghệ bào chế hiện đại (công nghệ đông khô, sấy phun sương, sản xuất thuốc tác dụng kéo dài), góp phần nâng cao chất lượng thuốc sản xuất trong nước.
- Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, KH-CN đã góp phần xây dựng và hoàn thiện chiến lược quốc phòng, an ninh của đất nước, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; nâng cao năng lực bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa, cải tiến và từng bước làm chủ công nghệ chế tạo một số vũ khí, khí tài thiết yếu phục vụ hiện đại hóa quân đội, đáp ứng yêu cầu quốc phòng và an ninh trong tình hình mới.
3. Tiềm lực KH- CN có bước phát triển
Nhân lực KH-CN, phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, cả nước có khoảng 4,28 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó có 24,3 nghìn tiến sĩ, 101 nghìn thạc sỹ So với năm 1996, đội ngũ này tăng hơn 4,6 lần (trung bình 11,6%/năm), số tiến sĩ tăng hơn 2,6 lần (7%/năm) và số thạc sỹ tăng 6,7 lần (14%/năm); tuổi bình quân là 38,5 (6). Đây là lực lượng tiềm năng tham gia vào các hoạt động KH-CN của đất nước.
Cả nước có trên 62 nghìn người làm việc tại các tổ chức nghiên cứu và phát triển KH-CN, trong đó số nhân lực có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên khoảng 50 nghìn người (gần 5 nghìn tiến sĩ và trên 11 nghìn thạc sỹ). Số cán bộ nghiên cứu và phát triển đạt 7 người trên một vạn dân. So với năm 1996, số lượng nhân lực có trình độ cao đẳng hoặc đại học trở lên trong các tổ chức nghiên cứu và phát triển tăng gần 3 lần. Cán bộ nghiên cứu và phát triển của đất nước hiện được phân bổ theo các lĩnh vực chính như sau: khoa học xã hội và nhân văn 10,6%; khoa học tự nhiên 7,3%; khoa học nông nghiệp 25,3%; khoa học y dược 10,8%; khoa học kỹ thuật và công nghệ 45,9%.
Tổ chức KH-CN, tăng nhanh về số lượng, đa dạng hóa về loại hình. Đến nay, cả nước có trên 1.600 tổ chức KH-CN, trong đó, các tổ chức ngoài công lập có xu hướng ngày càng gia tăng so với các tổ chức công lập (hơn 56%).
Các tổ chức KH-CN công lập trong những năm gần đây được chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, kết quả và hiệu quả hoạt động nhìn chung đã được nâng cao. Đặc biệt, đã xuất hiện một loại hình tổ chức KH-CN mới - doanh nghiệp KH-CN, có triển vọng trở thành lực lượng sản xuất quan trọng đi đầu trong ứng dụng kết quả KH-CN ở các ngành, các lĩnh vực.
Nguồn lực tài chính cho KH-CN, đã tăng và duy trì mức đầu tư hàng năm đạt 2% tổng chi ngân sách nhà nước, tốc độ tăng trung bình trong 5 năm gần đây đạt khoảng 16,5%/năm (7). Nguồn lực tài chính được gia tăng đã tạo điều kiện để đầu tư phát triển tiềm lực KH-CN, xây dựng và nâng cấp các phòng thí nghiệm, đào tạo nhân lực KH-CN trình độ cao và triển khai các nhiệm vụ KH-CN phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Công tác xã hội hoá nguồn lực tài chính được coi trọng. Đã có hơn 20 tỉnh, thành phố và hàng trăm doanh nghiệp thành lập quỹ phát triển KH-CN, tạo nguồn vốn khá lớn cho hoạt động KH-CN. Đã xuất hiện các doanh nghiệp quan tâm đầu tư cho hoạt động KH-CN thông qua thành lập viện nghiên cứu, trường đại học của doanh nghiệp; đặc biệt đã có doanh nghiệp dành tới 5% thu nhập tính thuế cho hoạt động KH-CN. Đầu tư của xã hội, chủ yếu của doanh nghiệp cho KH-CN tăng nhanh, đạt gần 1% GDP, cơ cấu đầu tư cho KH-CN giữa Nhà nước và ngoài Nhà nước chuyển dịch theo hướng tích cực (70/30).
Hạ tầng kỹ thuật cho KH-CN, phục vụ nghiên cứu, ứng dụng KH-CN được nâng cấp và cải thiện một bước. Nhà nước đã đầu tư xây dựng 17 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia thuộc các lĩnh vực công nghệ ưu tiên cùng với nhiều phòng thí nghiệm chuẩn thuộc các lĩnh vực chuyên ngành ở các viện nghiên cứu, trường đại học với hệ thống trang thiết bị nghiên cứu tương đối hiện đại, đồng bộ. Hệ thống các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung cũng đã được quan tâm đầu tư phát triển. Các tỉnh, thành phố thuộc các vùng kinh tế trọng điểm đều dự kiến thành lập khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn.
Hạ tầng thông tin KH-CN, đã có bước phát triển về chất so với năm 1996 trên cơ sở ứng dụng rộng rãi mạng Internet, các mạng tiên tiến và các thành tựu KH-CN hiện đại về số và thư viện điện tử.
Mạng lưới các tổ chức thông tin KH-CN đã được triển khai rộng khắp với hơn 500 cơ quan thông tin KH-CN ở Trung ương và địa phương. Nguồn thông tin KH-CN không ngừng được bổ sung, cập nhật. Hàng loạt các cơ sở dữ liệu, các mạng thông tin KH-CN đa ngành và chuyên ngành đã được đầu tư và phát huy hiệu quả. Mạng Nghiên cứu và Đào tạo Việt Nam (VinaREN) đã được đầu tư, triển khai hoạt động trên quy mô quốc gia, đạt chuẩn tiên tiến của thế giới. VinaREN đã kết nối hàng triệu cán bộ nghiên cứu, đào tạo và trên 100 viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện và trung tâm dự báo khí tượng - thủy văn của Việt Nam với trên 45 triệu đồng nghiệp của hơn 8.000 tổ chức liên quan của khu vực và thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động chia sẻ thông tin và hợp tác nghiên cứu, đào tạo trong nước và quốc tế.
4. Quản lý nhà nước về KH-CN được đổi mới phù hợp và hiệu quả hơn
Bộ máy quản lý về KH-CN cấp Trung ương và địa phương, được kiện toàn theo hướng tách biệt chức năng quản lý nhà nước với hoạt động sự nghiệp; phân định rõ nhiệm vụ của các đơn vị quản lý nhà nước với các tổ chức sự nghiệp; bổ sung và tăng cường năng lực quản lý nhà nước về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và thống kê KH-CN; năng lượng nguyên tử và an toàn hạt nhân. Tăng cường các nhiệm vụ quản lý, giám sát các chương trình trọng điểm cấp nhà nước; đánh giá khoa học và định giá công nghệ; doanh nghiệp khoa học và thị trường công nghệ; nghiên cứu khoa học sở hữu trí tuệ; nghiên cứu sáng chế và khai thác công nghệ; nghiên cứu và phát triển truyền thông KH-CN; hoạt động KH-CN địa phương;... thông qua việc thiết lập và kiện toàn bộ máy cơ quan quản lý nhà nước tương ứng trong các lĩnh vực này ở cả Trung ương và địa phương.
Quản lý các nhiệm vụ KH-CN, đã có những đổi mới cơ bản sau khi Luật KH-CN có hiệu lực (2001) và đặc biệt, từ sau khi có Đề án đổi mới cơ chế quản lý KH-CN (2004). Mục tiêu của đổi mới hướng tới chất lượng, hiệu quả của hoạt động nghiên cứu thông qua việc tăng cường tính khách quan, công khai, nghiêm túc của quy trình đề xuất, xác định nhiệm vụ đến tuyển chọn, giám sát, kiểm tra giữa kỳ và đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ KH-CN.
Quản lý hoạt động tổ chức KH-CN, được đổi mới cơ bản với chủ trương chuyển đổi các tổ chức KH-CN công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và hình thành doanh nghiệp KH-CN; cho phép thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh KH-CN nước ngoài, tổ chức KH-CN, doanh nghiệp KH-CN liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong một số lĩnh vực có nhu cầu.
Đến nay, hầu hết các tổ chức KH-CN công lập đã được giao quyền tự chủ ở mức độ khác nhau (8). Các đơn vị nghiên cứu cơ bản, chiến lược chính sách và cung cấp dịch vụ công tiếp tục được Nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên theo phương thức khoán và được giao quyền tự chủ cao trong hoạt động. Nhiều tổ chức KH-CN được chuyển đổi đã phát huy hiệu quả trong hoạt động.
5. Hợp tác quốc tế về KH- CN được đẩy mạnh và ngày càng chủ động
Thành tựu cơ bản trong lĩnh vực hợp tác và hội nhập quốc tế về KH-CN của Việt Nam trong những năm qua là đã đưa vị thế của quốc gia nhận viện trợ và bị động trở thành đối tác bình đẳng trong hợp tác và chủ động hội nhập quốc tế về KH-CN. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác về KH-CN với 70 nước, tổ chức quốc tế và vùng lãnh thổ. Hơn 80 hiệp định, thỏa thuận hợp tác KH-CN cấp Chính phủ và cấp Bộ đã được ký kết và đang thực hiện. Việt Nam đã là thành viên của 100 tổ chức quốc tế và khu vực về KH-CN.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, KH-CN Việt Nam còn đối mặt với nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục, nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ để có bước phát triển đột phá và thực sự trở thành động lực cho công cuộc CNH, HĐH đất nước, như: KH-CN chưa thực sự trở thành động lực then chốt cho phát triển KT-XH, chưa bám sát yêu cầu phát triển của đất nước; tiềm lực KH-CN phát triển còn chậm; việc đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KH-CN chưa đáp ứng yêu cầu; thị trường KH-CN còn sơ khai, chậm phát triển; Hợp tác quốc tế về KH-CN chưa tạo được hiệu quả nổi bật. Quá trình đầu tư đổi mới, phát triển và làm chủ công nghệ hiện đại trong các doanh nghiệp còn chậm nên chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, chậm được cải thiện.
Tình trạng nói trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng chủ yếu là do: nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về KH-CN còn chậm được quán triệt, thể chế hóa và tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu quả ở các cấp, các ngành; trình độ và quy mô của nền kinh tế, mức độ phát triển các quan hệ xã hội, văn hoá, nhận thức của người dân và thực tế một quốc gia chỉ vừa mới vượt qua ngưỡng nghèo với thu nhập bình quân đầu người còn rất thấp; môi trường đầu tư và cạnh tranh chưa thuận lợi cho phát triển KH-CN; công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động KH-CN chưa theo kịp với sự phát triển của KH-CN cũng như sự chuyển đổi của nền kinh tế; các chính sách sử dụng, trọng dụng đội ngũ cán bộ KH-CN chưa thỏa đáng, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính cho KH-CN còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động KH-CN. Tất cả những vấn đề đó đã và đang cản trở sự phát triển của KH-CN nước ta.
II. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới (hội nhập hoàn toàn vào năm 2018 theo Hiệp định WTO, tham gia Hiệp ước thương mại xuyên Thái Bình Dương - TPP), Việt Nam cần chủ động và khẩn trương tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của nước ta, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hoá và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần trong nước và thế giới ngày càng lớn, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. KH-CN nước ta có trách nhiệm to lớn trước những yêu cầu trên và phải hỗ trợ các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, chỉ còn 8 năm để hoàn thành mục tiêu đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như Đại hội Đảng XI đã đề ra, là một giai đoạn nước rút, cần có chủ trương lớn thể hiện một hệ quan điểm và tư duy mới, tháo gỡ các điểm nghẽn cản trở, dành ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực để phát triển KH-CN. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này về KH-CN đáp ứng yêu cầu đó, được thể hiện trên những quan điểm lớn sau đây:
1. Phát triển KH-CN cùng với giáo dục - đào tạo phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất, bảo đảm thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, nâng cao vị thế quốc gia và giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng có vai trò quyết định, năng lực quản lý của Nhà nước, tài năng, tâm huyết của các nhà khoa học và sự tham gia chủ động, tích cực của mọi lực lượng xã hội là điều kiện tiên quyết.
2. Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH-CN là khâu đột phá, trong đó tập trung đổi mới công tác xây dựng kế hoạch, phương thức đầu tư, cơ chế tài chính và chính sách cán bộ, trao quyền tự chủ toàn diện cho các tổ chức KH-CN, giải phóng sức sáng tạo và tạo động lực cho KH-CN phát triển.
3. Đẩy mạnh đầu tư cho nhân lực KH-CN và đãi ngộ trí thức. Coi đây là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước chỉ đạo xây dựng quy hoạch và có chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ KH-CN.
4. Ưu tiên nguồn lực quốc gia cho phát triển KH-CN, Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao tiềm lực và năng lực KH-CN quốc gia. Coi doanh nghiệp là trung tâm của đổi mới công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất thúc đẩy phát triển thị trường KH-CN, trong đó doanh nghiệp KH-CN có vai trò đặc biệt quan trọng. Quan tâm đúng mức nghiên cứu cơ bản, tập trung cho nghiên cứu ứng dụng, chú trọng tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến của thế giới phù hợp với điều kiện Việt Nam.
5. Chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế sâu rộng với định hướng dài hạn và kế hoạch hợp tác quốc tế trung hạn về KH-CN là giải pháp rất quan trọng để cập nhật tri thức KH-CN tiên tiến của thế giới, bổ sung nguồn lực, nâng cao tiềm lực KH-CN quốc gia.
Để thực hiện những quan điểm lớn trên đây, cần có giải pháp và biện pháp chỉ đạo đồng bộ, tập trung phát triển nguồn lực KH-CN tương xứng yêu cầu của nền KT-XH trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. Cần xây dựng lộ trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện tốt các mục tiêu đã được đề ra trong Nghị quyết:
- Đến năm 2020, Việt Nam có một nền KH-CN phát triển nằm trong nhóm các nước dẫn đầu ASEAN, một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới; tiềm lực KH-CN đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật và công nghệ, bảo đảm cung cấp kịp thời luận cứ khoa học cần thiết cho việc hoạch định các đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
- Phát triển, làm chủ các công nghệ nền, các lĩnh vực công nghệ cao có ảnh hưởng quyết định đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Đến năm 2020, hoạt động KH-CN thông qua yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp khoảng 35% tăng trưởng kinh tế; giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP; tốc động đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 20%/năm; giá trị giao dịch của thị trường KH-CN tăng 15 - 17%/năm.
- Hình thành đội ngũ cán bộ KH-CN trình độ cao, trung thực, tâm huyết; phát triển các tập thể KH-CN mạnh, các nhà khoa học và tổng công trình sư đầu ngành. Cán bộ nghiên cứu và phát triển đạt mức 11-12 người trên một vạn dân. Các công bố quốc tế tăng trung bình 15-20%/năm, tăng nhanh số lượng các sáng chế được bảo hộ trong nước và ở nước ngoài. Phát triển mạnh lực lượng doanh nghiệp KH-CN.
- Tổng đầu tư xã hội cho KH-CN đạt 1,5% GDP vào năm 2015 và trên 2% GDP vào năm 2020. Bảo đảm mức đầu tư cho KH-CN đạt tối thiểu 2% tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm.
Điều đó, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của các cấp ủy Đảng. Trước mắt, cần làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết đối với đảng viên và toàn xã hội. Ban Tuyên giáo Trung ương sẽ tích cực chủ trì phối hợp với các ban Đảng, Ban Cán sự đảng, Đảng đoàn, Đảng ủy trực thuộc Trung ương triển khai việc phổ biến, quán triệt, tuyên truyền nội dung Nghị quyết; thường xuyên theo dõi, đôn đốc công tác xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình hành động, nhằm đẩy mạnh phát triển KH-CN, thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết đề ra./.
------------------
(1) Trước Đại hội VI, Đảng ta đã xác định cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt trong ba cuộc cách mạng của thời kỳ khôi
phục và kiến thiết đất nước sau thống nhất. Đại hội VI (1986) coi KH-CN là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội VII (1991) khẳng định KH-CN là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội VIII (1996) và Đại hội IX (2001) coi KH-CN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội X (2006) nhấn mạnh vai trò động lực của KH-CN trong phát triển kinh tế tri thức. Đại hội XI (2011) đề ra đường lối đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, KH-CN giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững.
(2) Tổng số các chương trình KHXH-NV trọng điểm cấp nhà nước triển khai từ năm 1996 đến năm 2010 là 21 chương trình và 182 đề tài độc lập cấp nhà nước, trong đó, giai đoạn 1996-2000: 6 chương trình; giai đoạn 2001-2005: 10 chương trình; giai đoạn 2006-2010: 5 chương trình.
(3) Giai đoạn 1996-2011, đã triển khai 4.019 nhiệm vụ theo 9 hướng nghiên cứu: Toán học, Tin học, Cơ học, Vật lý, Hóa học, Khoa học sự sống, Khoa học trái đất, KH-CN nano, Nghiên cứu cơ bản định hướng sinh học.
(4) Tổng số các chương trình KH-CN trọng điểm cấp nhà nước triển khai trong giai đoạn 1999-2010 là 31 chương trình với 741 đề tài, 212 dự án; giai đoạn 2006-2010 có 173 đề tài độc lập cấp nhà nước; giai đoạn 2001-2010 có 113 dự án sản xuất thử nghiệm độc lập cấp nhà nước.
(5) Giàn khoan tự nâng cao tổng trọng lượng gần 12.000 tấn, chiều dài chân 145m, hoạt động ở độ sâu tới 107m nước và chiều sâu khoan đến 6.100m. Nguồn: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.
(6) Trên 62% số người có trình độ đại học dưới 39 tuổi. Tuy nhiên, hơn 60% tiến sỹ đã ở độ tuổi trên 50, trên 21% ở độ tuổi 40-49, 16% ở độ tuổi 30-39 và chỉ có 2,8% ở độ tuổi 20-29.
(7) Nguồn: Bộ Tài chính.
(8) Đến nay, trong tổng số 585 tổ chức KH-CN công lập thuộc diện chuyển đổi, đã có 267 tổ chức (46%) đã được phê duyệt đề án chuyển đổi; số còn lại đang xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đề án.
PGS.TS Phạm Văn Linh