Lần đầu tiên trong các kỳ đại hội của Đảng, Đại hội XI đã đề cập trực tiếp đến công tác đối ngoại quốc phòng (ĐNQP); đó là: "Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế (HTQT) trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh". Điều đó thể hiện: Đảng đánh giá cao tầm quan trọng của ĐNQP; đồng thời, đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề cho công tác ĐNQP thời gian tới.
Để hoàn thành trọng trách được giao, công tác ĐNQP trong thời gian tới cần quán triệt tư duy mới về hội nhập quốc tế (HNQT) được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đề cập, là "Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế (HTQT) trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh"1, “chủ động và tích cực HNQT”2. Theo đó, HNQT trên lĩnh vực quốc phòng cần được tiến hành“... trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình HNQT”3. Quá trình mở rộng HTQT trên lĩnh vực quốc phòng, công tác ĐNQP cần giữ vững nguyên tắc bảo đảm độc lập, tự chủ về quốc phòng-an ninh (QP-AN) cho đất nước. Đây là nguyên tắc bất di, bất dịch, cần được quán triệt trong mọi kế hoạch, biện pháp của công tác ĐNQP. Mặt khác, chúng ta cần nhận thức đúng về mối quan hệ hữu cơ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và tăng cường HTQT trên lĩnh vực quốc phòng. Đây là hai mặt trong một thể thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong công tác ĐNQP. HNQT trên lĩnh vực quốc phòng nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước cả về tiềm lực và thế trận, để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước, bảo vệ môi trường hòa bình và phát triển đất nước. Ngược lại, giữ vững độc lập, tự chủ là điều kiện thuận lợi cơ bản để tăng cường HTQT về quốc phòng. Không có độc lập, tự chủ thì không thể HTQT thành công. Để hội nhập có hiệu quả đồng thời giữ vững được độc lập, tự chủ, công tác ĐNQP cần tiếp tục thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ, để chúng ta không bị lệ thuộc vào bất cứ mối quan hệ nào. Mặt khác, chúng ta cần tích cực, chủ động, sáng tạo trong hợp tác quốc phòng (HTQP), tránh tư duy phiến diện, cực đoan, duy ý chí để thúc đẩy các quan hệ quốc phòng (QHQP) phát triển cả bề rộng và chiều sâu.
Chúng ta cũng cần nhận thức sâu sắc hơn về mục tiêu của HNQT trên lĩnh vực quốc phòng của nước ta. HNQT không phải là hướng ngoại mà là nhằm thực hiện các nhiệm vụ của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Vì vậy, ĐNQP phải góp phần thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ QP-AN là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”4. Mục tiêu này chính là lợi ích quốc gia, dân tộc và phải được xem là thước đo hiệu quả của mọi hoạt động ĐNQP. Lợi ích quốc gia, dân tộc là sự gắn kết giữa độc lập dân tộc và CNXH; là lợi ích chung, lợi ích lâu dài của đất nước được xem xét một cách toàn diện cả trên bình diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và quân sự... Bảo đảm lợi ích quốc gia không có nghĩa là chúng ta không quan tâm đến lợi ích của khu vực, của cộng đồng quốc tế, vì suy cho cùng, trong lợi ích của khu vực và quốc tế cũng có lợi ích của Việt Nam. Hơn thế nữa, lợi ích quốc gia không phải chỉ đơn thuần là lợi ích vật chất. Bằng lời nói và việc làm, ĐNQP cần thể hiện tinh thần trách nhiệm với khu vực và cộng đồng quốc tế; truyền thống thuỷ chung với bè bạn, đồng chí của Đảng và dân tộc ta; qua đó, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước, con người Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế. Đó là bài học đối ngoại thành công, cũng là tài sản quý giá của đất nước trong thời kỳ HNQT. Vì vậy, khi tính toán lợi ích của quốc gia, cần khách quan, toàn diện, chống khuynh hướng chỉ dựa trên yếu tố chính trị, tư tưởng đơn thuần hoặc nặng về kinh tế; đồng thời, phải dựa trên lợi ích toàn cục, tránh cách nhìn phiến diện, cục bộ.
Để bảo vệ lợi ích quốc gia, công tác ĐNQP cần vận dụng một cách nhuần nhuyễn giữa hợp tác và đấu tranh trong điều kiện HNQT. Trước hết, chúng ta cần nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác được nêu trong Nghị quyết Trung ương 8, (khoá IX) về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới: “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ đều là đối tượng đấu tranh”5. Từ nguyên tắc nêu trên, việc xác định đối tượng, đối tác để hợp tác và đấu tranh trong công tác ĐNQP phải lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm tiêu chí cơ bản. Nguyên tắc này cũng cho thấy quan niệm đối tượng, đối tác không phải là bất biến. Thông qua hợp tác và đấu tranh chúng ta có thể chuyển hoá đối tượng thành đối tác. Ngược lại, trong quan hệ với đối tác, không chỉ có hợp tác mà còn cần phải có đấu tranh. Đấu tranh để giữ vững sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi trong hợp tác. Đấu tranh để giải quyết bất đồng, tăng cường sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, nhằm làm cho hợp tác ngày càng hiệu quả hơn.
Thấm nhuần tư duy của Đảng về HNQT, công tác ĐNQP trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ chính sau đây:
Một là, HTQP trong những năm tới cần được tiến hành đồng bộ với HNQT trên các lĩnh vực khác để tạo thành một thể thống nhất trong chiến lược chung của quốc gia, giữ vững mối quan hệ hữu cơ giữa xây dựng và BVTQ. ĐNQP không chỉ nhằm tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước mà còn phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp CNH,HĐH, phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Hiện nay, nước ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với nhiều quốc gia, kể cả với nhiều cường quốc trên thế giới; quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước ngày càng phát triển theo chiều sâu. Trong các mối quan hệ đó, HTQP là một yếu tố không thể thiếu và cần được phát triển để trở thành một trong những khâu trọng yếu đáp ứng các nhu cầu HNQT của đất nước. Trên tinh thần “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm” của đất nước trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, công tác ĐNQP phải đấu tranh giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước. Mặt khác, quá trình mở rộng HNQT cũng tạo ra những nhu cầu hợp tác QP-AN ngày càng đa dạng, với mức độ ngày càng sâu. Đây là vấn đề có tính quy luật trong HNQT. Do vậy, công tác ĐNQP cần nắm vững các nhu cầu đó để chủ động phát triển các hình thức và biện pháp thúc đẩy HTQP cả song phương và đa phương phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Thời gian tới, chúng ta cần làm sâu sắc thêm các mối quan hệ HTQP trong các vấn đề an ninh phi truyền thống, như: chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, cứu hộ, cứu nạn, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh..., nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu cấp thiết trong quá trình HNQT của đất nước.
Hơn thế, các đơn vị kinh tế và công nghiệp quốc phòng (CNQP) của quân đội phải tích cực nắm bắt các cơ hội khi ta tham gia vào các cơ cấu kinh tế đa phương, như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hợp tác kinh tế trong khuôn khổ ASEAN... cũng như các cơ chế hợp tác kinh tế song phương để trực tiếp tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Các cơ quan Bộ Quốc phòng (BQP) cần đề ra các chương trình và chỉ đạo chặt chẽ hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của các đơn vị kinh tế và CNQP, thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với kinh tế, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
Hai là, tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ môi trường hoà bình và ổn định trong khu vực và trên thế giới. ĐNQP phải trở thành một trong những lực lượng nòng cốt cùng toàn dân thực hiện thắng lợi chiến lược BVTQ. Trong điều kiện đất nước hội nhập ngày càng sâu vào thế giới và khu vực, các vấn đề liên quan tới QP-AN của nước ta ngày càng liên kết chặt chẽ với các vấn đề an ninh của các nước láng giềng, của khu vực và quốc tế. Do đó, chúng ta cần đẩy mạnh HTQP với các đối tác để có thể giải quyết hiệu quả các vấn đề an ninh có liên quan, đẩy mạnh hợp tác với các cơ quan hữu quan của các nước láng giềng để bảo vệ an ninh biên giới, giữ vững chủ quyền của Tổ quốc.
Công tác ĐNQP cần phải phối hợp chặt chẽ với đối ngoại của Nhà nước và nhân dân, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh trên thực địa của các lực lượng để đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, ĐNQP phải thực hiện đấu tranh đối với các hành động xâm phạm chủ quyền; đồng thời, thực hiện hợp tác để bảo vệ các lợi ích quốc gia. Hợp tác và đấu tranh trong ĐNQP để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và các lợi ích quốc gia của đất nước là hai mặt của một vấn đề và không thể xem nhẹ mặt nào. Chúng ta đấu tranh không khoan nhượng trong những vấn đề có tính nguyên tắc, nhưng mềm dẻo, linh hoạt trong các vấn đề cụ thể để có thể hợp tác giải quyết các bất đồng. Mặt khác, cần thông qua hợp tác để tác động, đấu tranh nhằm hạn chế các hoạt động xâm phạm chủ quyền của Tổ quốc. Để làm được như vậy, ĐNQP cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, kết hợp chặt chẽ với các cơ quan của Đảng, Nhà nước, quân đội trong một chiến lược thống nhất nhằm giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ba là, công tác ĐNQP phải góp phần quan trọng trong đấu tranh chống "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ, bảo vệ Đảng, chế độ XHCN và ổn định chính trị để phát triển đất nước. Để hoàn thành nhiệm vụ này, ĐNQP phải kết hợp chặt chẽ giữa phòng và chống. Thông qua mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hợp tác, ĐNQP tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân ta với quân đội và nhân dân các nước, làm cho dư luận, nhân dân, quân đội các nước hiểu rõ hơn đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN. Như vậy, ĐNQP có thể làm thất bại ngay từ bên ngoài các luận điệu tuyên truyền chống chế độ XHCN của các thế lực thù địch. Mặt khác, ĐNQP phải đấu tranh có hiệu quả đối với âm mưu nhằm “phi chính trị hoá” quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài việc chống các hoạt động tuyên truyền phản cách mạng, các tác động xấu của HNQT đến tư tưởng của bộ đội, chúng ta cần tập trung đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền ĐNQP trên những địa bàn trọng điểm bằng các hình thức đa dạng và phong phú.
Bốn là, ĐNQP phải tích cực góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Thông qua các hoạt động hợp tác, ĐNQP phải góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Tổ quốc, tiếp thu các kiến thức quân sự hiện đại của thế giới. Để đạt được mục đích này, chúng ta không chỉ đơn thuần gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài để tiếp thu kiến thức khoa học, kỹ thuật quân sự hiện đại mà phải thông qua thực tiễn hoạt động HTQP để bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ. Chính thực tiễn sinh động với nhiều thử thách không kém phần cam go của công tác ĐNQP sẽ là trường học lớn để cán bộ quân đội phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành. Mặt khác, thông qua thương mại quốc phòng và các cơ chế hợp tác CNQP, ĐNQP cần tranh thủ các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến…, để trang bị cho quân đội các loại vũ khí, khí tài ngày càng hiện đại, phù hợp với điều kiện và nghệ thuật quân sự Việt Nam, làm cho đất nước ngày càng tự chủ về khoa học, kỹ thuật quân sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện.
Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ nêu trên, chúng ta cần chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động ĐNQP, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế về quốc phòng đi vào chiều sâu. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động ĐNQP đòi hỏi phải nâng cao toàn diện chất lượng công tác nắm tình hình, tham mưu và năng lực thực hiện; trong đó, chất lượng công tác tham mưu chiến lược đối ngoại trong chiến lược BVTQ, trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân giữ vai trò then chốt. ĐNQP phải nâng cao chất lượng công tác tham mưu cho Quân uỷ Trung ương, lãnh đạo BQP, lãnh đạo Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách cũng như các biện pháp cụ thể trong quá trình HNQT. Các lực lượng làm công tác đối ngoại trong quân đội phải góp phần quan trọng trong đề xuất các chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, kiến nghị các giải pháp, đối sách thích hợp, xử lý các tình huống phức tạp để nâng cao chất lượng các hoạt động HTQP cũng như hoạt động đối ngoại của nước ta nói chung.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động ĐNQP, các cấp, các ngành, nhất là lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong quân đội cần nhận thức đúng về vai trò của công tác ĐNQP trong thời kỳ đẩy mạnh HNQT và sự kết hợp giữa công tác đối ngoại với công tác quốc phòng, quân sự là thành tố không thể thiếu trong sức mạnh quốc phòng của đất nước. Mọi hoạt động của công tác ĐNQP đều phải được tính toán cẩn trọng, thực hiện nghiêm túc, triệt để với độ chính xác cao. Chúng ta cần đấu tranh với nhận thức cho rằng, công tác đối ngoại chỉ mang tính chất lễ tân, nên khi tiến hành chỉ chú trọng hình thức, không chú trọng hiệu quả đối với QP-AN của đất nước cũng như việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình. Trong công tác nắm tình hình, ĐNQP phải nâng cao khả năng nắm bắt thông tin, nhất là thông tin dự báo chiến lược về tình hình thế giới và khu vực có liên quan đến quốc phòng Việt Nam. Để nắm chắc tình hình, ĐNQP phải tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp; giữa nắm và nâng cao khả năng phân tích, xử lý thông tin.
Nâng cao khả năng thực hiện các hoạt động ĐNQP của lực lượng chuyên trách cũng như của các cá nhân, đơn vị có liên quan đến hoạt động đối ngoại của quân đội là vấn đề then chốt trong việc nâng cao hiệu quả công tác ĐNQP thời gian tới. Cán bộ, chiến sĩ tham gia hoạt động ĐNQP phải có phẩm chất tốt và khả năng hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ ĐNQP chuyên trách phải nắm vững đường lối, chính sách quốc phòng, đối ngoại và được đào tạo để trở thành các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao. Mặt khác, chúng ta cần bồi dưỡng kiến thức và năng lực thực hiện công tác ĐNQP cần thiết cho đội ngũ sĩ quan; trong đó, chú trọng cán bộ chủ trì, cán bộ tham gia hoạt động ĐNQP tại các đơn vị trọng điểm; đồng thời, cần tiếp tục đầu tư thích đáng, có hiệu quả cơ sở vật chất, hoàn thiện các cơ chế thực hiện, hiệp đồng thực hiện nhiệm vụ ĐNQP.
Phát triển các mối QHQP theo chiều sâu cũng là một nội dung quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác ĐNQP. Các mối QHQP song phương với các nước láng giềng, các nước ASEAN và các đối tác lớn cần phải được ưu tiên và không ngừng phát triển ngày càng sâu sắc. QHQP giữa Việt Nam với Lào và Cam-pu-chia dựa trên cơ sở tình hữu nghị truyền thống, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, thực hiện hợp tác đi vào chiều sâu đáp ứng nhu cầu bảo vệ an ninh của mỗi nước. QHQP giữa Việt Nam với các thành viên khác của ASEAN cần chú trọng hợp tác hiệu quả trong quá trình xây dựng Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN. QHQP với Trung Quốc phải dựa trên tinh thần hữu nghị truyền thống, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước để thiết lập các cơ chế hợp tác giữ gìn an ninh chung ở biên giới trên bộ và trên biển, góp phần giải quyết các vấn đề an ninh mà hai bên cùng quan tâm. Chúng ta cần chú ý thích đáng để mở rộng hợp tác với các đối tác lớn như Nga, Ấn Độ, Mỹ..., đáp ứng các nhu cầu quốc phòng của đất nước.
QHQP đa phương cần phát huy các thành tích đã đạt được trong năm Việt Nam đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN, tiếp tục khẳng định vai trò trong việc duy trì động lực phát triển của cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), cũng như tiếp tục nghiên cứu để tham gia ngày càng sâu hơn vào các hoạt động HTQP đa phương khác trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc. Cần kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác song phương và hợp tác đa phương trong một chiến lược, kế hoạch thống nhất, nhằm phát huy các ưu điểm của các loại hình hợp tác, tạo ra các cơ chế hợp tác thích hợp để nâng cao thế và lực của ĐNQP Việt Nam nói riêng, thế và lực của nền quốc phòng toàn dân nói chung.
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, công tác ĐNQP cần tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, bám sát sự chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương, BQP, chủ động, tích cực phát triển HTQP đồng bộ, toàn diện, có chiều sâu, lấy hiệu quả làm thước đo thực hiện nhiệm vụ phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.
Trung tướng NGUYỄN CHÍ VỊNH, Uỷ viên BCHTƯ Đảng, Thứ trưởng BQP
Nguồn: QPTD
-------
1 - Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 233.
2 - Sđd, tr. 83.
3 - Sđd, tr. 236.
4 - Sđd, tr. 233.
5 - Ban TT-VHTƯ- Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám BCHTƯ Đảng khoá IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 44.