Gần 40 năm qua, cựu thanh niên xung phong Nguyễn Thanh Bình (xã Giao Hải, huyện
Giao Thủy, Nam Định) vẫn một mình lặng lẽ trên hành trình đưa những đồng đội đã
hy sinh trở về với gia đình, quê hương.
Công việc âm thầm đó, với ông vừa là trách nhiệm vừa là lời tri ân cho những hy
sinh, mất mát vô cùng to lớn của các đồng chí, đồng đội đã nằm lại nơi chiến
trường.
Năm 1965, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, ông Bình gia nhập đội thanh niên xung
phong chống Mỹ cứu nước thuộc Đại đội 261, N37 (sau đổi thành C389), sống chiến
đấu trên tuyến lửa 22 thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Kháng chiến thắng lợi, trong khi ông
và nhiều người may mắn được trở về thì biết bao đồng đội đã mãi mãi nằm lại
chiến trường.
Trở về địa phương, ông vẫn tiếp tục công việc xây dựng cuộc sống gia đình, xây
dựng lại quê hương đất nước. Sống trong cảnh thanh bình, quê hương ngày một đổi
mới, ông càng thấm thía sự cống hiến và hy sinh của đồng chí, đồng đội, của bao
người đã ngã xuống cho nền độc lập của đất nước. Ông luôn mang trong mình nhiều
trăn trở về những người đồng đội vẫn còn nằm lại nơi chiến trường. Năm 1976, ông
bắt đầu hành trình đi tìm hài cốt đồng đội cho tới bây giờ.
Ông cho biết: "Trở về quê hương, hình ảnh những người đồng đội hy sinh tại chiến
trường lúc nào cũng ám ảnh tôi, đặc biệt là đồng chí Roãn Thanh Đức (xã Giao Hà,
Giao Thủy) cùng đơn vị tôi hy sinh khi đang làm nhiệm vụ trên tuyến lửa 22. Lúc
đó đồng chí bị mảnh bom sát thương xé ngược thân từ lưng lên cổ và ngã xuống một
căn hầm. Đồng chí được đơn vị làm lễ truy điệu, tiễn biệt giữa khu rừng thuộc
huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, sau đó mộ đồng chí được mai táng tại km 17, tuyến 22.
Tôi đã tự hứa dù thế nào cũng phải tìm ra được mộ của đồng chí để đưa về an táng
tại quê nhà."
Tháng 2/1976, ông Bình bắt đầu chuyến đi đầu tiên tìm hài cốt ông Roãn Thanh
Đức. Tuy nhiên, sau rất nhiều nỗ lực, ông Bình vẫn không thể tìm thấy được mộ
của đồng đội. Trong quá trình tìm kiếm mộ các liệt sỹ, tình cờ đến tháng 4/1997,
ông Bình mới được biết thông tin mộ liệt sỹ Roãn Thanh Đức được quy tập, di
chuyển ra km số 0, tuyến 22 và sau đó tiếp tục di chuyển qua phía Nam của Đèo
Ngang (Quảng Bình).
Sau khi khảo sát nghĩa trang Trường Sơn không có kết quả, ông Bình lại đi ngược
từ Đồng Hới ra khảo sát các nghĩa trang ven quốc lộ 1. Sau rất nhiều khó khăn,
vất vả lặn lội nhiều ngày cuối cùng, ông cũng tìm được mộ liệt sỹ Roãn Thanh Đức
tại nghĩa trang xã Quảng Xuân, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vậy là sau
hơn 20 năm, cuối cùng tâm nguyện tìm và đưa người đồng đội Roãn Thanh Đức trở về
với gia đình của tôi đã hoàn thành.
Cũng trong chuyến đi tìm mộ liệt sỹ Roãn Thanh Đức, ông Bình đã tìm được mộ liệt
sỹ Phạm Đức Nhuận (Giao Thủy) ở nghĩa trang huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Tại đây, ông
cùng em trai liệt sỹ Phạm Đức Nhuận đã vỡ òa khi tìm thấy mộ của liệt sỹ Nhuận
với sự giúp đỡ của chính quyền địa phương và người dân. Mộ của liệt sỹ Trần Đình
Hợp (xã Giao Lâm, Giao Thuỷ) và đồng chí Nguyễn Văn Hợp (xã Thọ Nghiệp, Xuân
Trường) cũng may mắn được tìm thấy trong chuyến đi này. Năm 1998 ông tiếp tục
tìm kiếm được mộ liệt sỹ Trịnh Thị Mừng (xã Giao Hải, Giao Thủy).
Gần 40 năm qua, ông Bình đã cùng với người thân của các liệt sỹ đã đi từ Bắc vào
Nam để tìm và đón rất nhiều liệt sỹ thuộc đơn vị về với gia đình, quê hương.
Những chuyến đi này với ông có rất nhiều kỷ niệm và ý nghĩa.
Ông tâm sự đồng đội của ông đã nằm yên nghỉ ở các địa phương khác nhau, sau
nhiều năm bị di chuyển nhiều địa điểm do biến động của tự nhiên và con người.
Một phần nữa do hồ sơ quy tập của đơn vị và các địa phương không được hoàn chỉnh
nên không biết được cụ thể nơi các đồng đội an nghỉ.
Kể về các chuyến đi của mình, ông Bình cho biết không phải chuyến đi nào ông
cũng thành công, có khi vất vả đi lại vài ba lần vẫn về không là chuyện bình
thường.
Nhiều đồng đội của ông, tới nay sau gần 40 năm, vẫn chưa được tìm thấy để đưa về
quê hương với gia đình khiến ông rất day dứt, trăn trở. Nhớ những lần trở lại
chiến trường xưa tìm hài cốt đồng đội, tuyến lửa 22 của những năm 1966, 1968 giờ
đã thành hồ Kẻ Gỗ mênh mông, đứng trên đập hồ vào tiết trời mùa Đông ảm đạm,
không một tia hi vọng, một nguồn tin, vết tích nào của đồng đội khiến tim ông
như thắt lại. Lúc đó ông nghĩ “Phải chăng đồng đội vẫn đang nằm lạnh lẽo đâu đó
dưới đáy hồ sâu thăm thẳm kia”... và lại trào nước mắt...
Mỗi chuyến đi ông đều phải tự túc lo chi phí đi lại, tìm kiếm. Ông thường chuẩn
bị gạo, mỳ tôm và thức ăn khô trước mỗi lần đi. Đến các địa điểm tìm kiếm, ông
xin ở nhờ nhà dân rồi tự nấu ăn bằng đồ mang theo. Có những thời điểm gia đình
khó khăn, mặc dù điều kiện không có, phải đi vay mượn khắp nơi nhưng chỉ cần có
thông tin về đồng đội ở đâu là ông lại lên đường.
Với ông, công việc đi tìm hài cốt đồng đội gần 40 năm qua tuy rất vất vả và tốn
kém, nhưng đó là trách nhiệm ông thấy mình cần phải làm cho những hy sinh, mất
mát vô cùng to lớn của các đồng chí, đồng đội đã nằm lại nơi chiến trường ác
liệt. Những chuyến đi tìm đồng đội của ông chuyến đi nào cũng thấm đẫm nước mắt
của người thân liệt sỹ và người dân địa phương. Năm 2011, ông đi liên tiếp 3
chuyến đến thành phố Tuy Hòa (Phú Yên), cửa khẩu Bu Prăng (tỉnh Đắk Nông),
Angkor Wat (Campuchia) để tìm và đưa về quê an táng được 3 liệt sỹ là liệt sỹ
Nguyễn Quang Minh, liệt sỹ Nguyễn Thế Vân và liệt sỹ Nguyễn Quốc Hương (huyện
Giao Thủy).
Ông Bình cho biết động lực thôi thúc ông mỗi ngày tiếp tục đi tìm đồng đội chính
là xuất phát từ tình cảm, trách nhiệm của ông cũng như tâm tư, nỗi đau của những
gia đình có người thân hy sinh tại chiến trường vẫn chưa tìm thấy hài cốt. Tâm
nguyện lớn nhất đời ông là ngày nào còn đi được thì ông vẫn tiếp tục đi tìm và
đưa đồng đội mình trở về với gia đình, quê hương./.
Thùy Dung /TTXVN