MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG GIÀ HÓA DÂN SỐ TRÊN THẾ GIỚI
Già
hóa dân số là một trong những xu hướng nổi bật, đáng quan tâm của thế
kỷ XXI, thể hiện ở việc gia tăng tỷ lệ người cao tuổi (NCT) trong tổng
dân số một quốc gia hoặc khu vực; có tác động sâu rộng tới mọi mặt đời
sống nhân loại. Đây cũng là kết quả tất yếu của quá trình chuyển đổi
nhân khẩu học (hướng tới cuộc sống lâu dài và nhiều gia đình hơn) đang
diễn ra phổ biến, biểu hiện ở việc tầng lớp NCT gia tăng mạnh do tỷ suất
sinh giảm và tuổi thọ trung bình tăng lên. Ngược về quá khứ, năm 1950,
thế giới có khoảng 200 triệu người trên 60 tuổi, đến năm 2020, có đến
727 triệu người từ 65 tuổi trở lên và theo dự báo, con số này có thể
tăng gấp đôi vào năm 2050 (khoảng 1,5 tỷ người)(1); ở các vùng ít phát triển hơn, độ tuổi trung vị sẽ tăng từ 26 tuổi (năm 2010) lên 35 tuổi (năm 2050)(2).
Về
phân loại hiện tượng già hóa dân số: Một số nhà nghiên cứu phân chia
mức độ già hóa tương ứng với các nội dung cụ thể: Dân số từ 65 tuổi trở
lên chiếm 7% - 9,9% tổng dân số được coi là “già hóa”; từ 10% - 19,9%
gọi là dân số “già”; từ 20% - 29,9% là dân số “rất già” và trên 30% là
dân số “siêu già”(3). Mỗi quốc gia đều có mức độ và tốc độ
già hóa dân số khác nhau, những nơi quá trình này diễn ra muộn sẽ có ít
thời gian để đối phó với các tác động hơn; trong ba thập kỷ tới, tỷ lệ
NCT tăng nhanh chóng, tuy nhiên, chỉ có một số ít quốc gia đủ khả năng
xác định nhóm dân cư cao tuổi nào sẽ có thể sinh sống trong điều kiện
sức khỏe ổn định hay là đau ốm, bệnh tật (thông thường, kéo dài tuổi thọ
phần nào đồng nghĩa với kéo dài tình trạng sức khỏe kém trong giai đoạn
suy kiệt của cơ thể)(4).
Cùng
với đó, sự gia tăng tỷ lệ người già trong dân số sẽ gây áp lực mạnh mẽ
lên các hoạt động, kế hoạch chi tiêu công, bởi chính quyền các quốc gia
phải chi trả lượng lương hưu lớn và trong thời gian dài hơn(5). Theo đó, với đặc điểm về thể chất, sức khỏe của NCT, nhu cầu chăm sóc y tế và bảo trợ xã hội cũng tăng lên(6).
Như vậy, già hóa dân số yêu cầu chính quyền các quốc gia phải có kế
hoạch, giải pháp tháo gỡ toàn diện, bảo đảm ổn định, đáp ứng yêu cầu về
sức khỏe cộng đồng cũng như phát triển bền vững kinh tế - xã hội(7).
Có
hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiện tượng giá hóa dân số là: 1- Đây là
kết quả tất yếu của xu hướng giảm sinh, đặc biệt khi điều kiện sống ngày
càng được cải thiện, khiến tỷ lệ NCT cao hơn hẳn so với tầng lớp trẻ em
(một phần là thành tựu trên chặng đường phát triển nhân loại, từ chương
trình sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hóa gia đình, tâm lý xã hội, trình
độ công nghệ, kinh tế, chính sách dân số, hôn nhân đồng tính, quyền phá
thai,…); 2- Tuổi thọ trung bình tăng trên toàn cầu, dẫn đến sự già đi
nhanh chóng của dân số toàn thế giới.
Thực
tế, hiện tượng già hóa dân số diễn ra sớm nhất ở các nước trình độ phát
triển cao, nhưng có tốc độ gia tăng nhanh hơn ở các vùng ít phát triển
hơn(8) (trong tương lai, quá trình già hóa có xu hướng giảm
đáng kể ở châu Âu và diễn ra mạnh mẽ ở các nước châu Á). Hiện nay, châu
Âu và Bắc Mỹ là hai khu vực có tỷ lệ NCT cao nhất; trong khi đó, Bắc
Phi, Tây Á và các nước châu Phi ở vùng cận Sahara dự kiến có tốc độ gia
tăng nhanh nhất về số lượng NCT trong ba thập kỷ tới(9). Về
tổng thể, theo dự báo, tuổi thọ trung bình toàn cầu dự kiến sẽ đạt 77,2
vào năm 2050 nhờ những tiến bộ của y học, điều kiện vệ sinh, sinh hoạt
và dinh dưỡng được cải thiện, cụ thể: châu Á sẽ đạt 78 tuổi; khu vực Bắc
Mỹ, châu Mỹ La-tinh, châu Âu và châu Đại Dương sẽ đạt khoảng từ 81 đến
84 tuổi; mặc dù châu Phi vẫn có tuổi thọ trung bình thấp hơn mức trung
bình của thế giới nhưng sẽ tăng mạnh lên 66 tuổi (năm 2030) và gần 70
tuổi (năm 2050)(10).
Châu
Âu là khu vực phải đối mặt với tình trạng lão hóa dân số từ nhiều thập
niên trước, đến nay, dân số châu Âu đang già đi nhanh chóng do tỷ lệ
sinh thấp, trong khi tuổi thọ trung bình ngày càng tăng. Theo dự kiến
đến năm 2050, khoảng 30% dân số châu Âu sẽ là NCT(11), đặt ra
nhiều vấn đề trong hoạch định chính sách, chương trình hỗ trợ bảo đảm
an sinh, phúc lợi xã hội. Ở châu Á, tỷ lệ người già đang gia tăng nhanh
chóng, trong khi tỷ lệ sinh giảm ở nhiều nước, do đó, nhiều quốc gia
đang phải “căng mình” để xử lý những hệ lụy do tác động của quá trình
giá hóa dân số. Ví dụ, Nhật Bản là quốc gia có tỷ lệ dân số ở mức siêu
già, nhóm dân số cao tuổi đạt khoảng 36,2 triệu người, chiếm 29% tổng
dân số (năm 2022); dự báo đến năm 2030, nhóm dân số cao tuổi sẽ tăng lên
khoảng 37,3 triệu người, chiếm tới 31% tổng dân số và sẽ là 40% vào năm
2060(12),... Đáng chú ý, tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên đang
làm việc đã lên tới 8,62 triệu người, trong đó có 3,5 triệu phụ nữ,
nhưng Nhật Bản sẽ vẫn thiếu khoảng 6,44 triệu lao động vào năm 2030(13).
Trong khi đó, năm 2020, dân số của Trung Quốc đạt mốc 1,411 tỷ người
(tăng 72 triệu người so với năm 2010); dân số trong độ tuổi lao động (từ
15 - 59 tuổi) giảm xuống còn 894 triệu người, trong đó, người từ 60
tuổi trở lên tăng đến 264 triệu người (chiếm 18,7% dân số), từ 65 tuổi
trở lên đạt 190 triệu người (chiếm 13,5% dân số), từ 80 tuổi trở lên đạt
35,8 triệu người (chiếm 2,54% tổng dân số)(14),… Như vậy, lần đầu tiên sau hơn 60 năm, Trung Quốc đối diện với sự sụt giảm dân số, khởi đầu giai đoạn khủng hoảng dân số.
Người cao tuổi ở Nhật Bản. (Nguồn: japannews.yomiuri.co.jp)
NHỮNG TÁC ĐỘNG, ẢNH HƯỞNG CỦA QUÁ TRÌNH GIÀ HÓA DÂN SỐ
Thứ nhất,
cơ cấu dân số thay đổi khiến quá trình phân phối quyền lực và lựa chọn
ứng viên, đại biểu đại diện cho nhân dân ở các khu vực hành chính trong
hệ thống chính trị bị ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến quyết sách các
quốc gia và vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, khi tỷ lệ NCT gia tăng, tỷ suất
sinh giảm sẽ dẫn đến thiếu hụt nguồn lao động trầm trọng ở nhiều nơi,
tạo sức ép, thách thức về điều chỉnh thị trường lao động, việc làm; giải
quyết xung đột, mâu thuẫn giữa các thế hệ trong thời kỳ dân số già; kìm
hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế, năng suất sản xuất và đổi mới, suy giảm
năng lực cạnh tranh. Ví dụ: tại Pháp, theo dự báo, đến năm 2030, trung
bình mỗi năm, nước này chỉ có khoảng 640.000 thanh niên gia nhập thị
trường lao động, trong khi có đến 760 nghìn vị trí tuyển dụng(15);
tại Nhật Bản, tỷ lệ lao động lớn tuổi hiện ở mức cao trong các ngành,
dẫn đến tình trạng thiếu nhân lực trầm trọng, như ngành xây dựng và điều
dưỡng (15%), ngành vận tải (hơn 10%), tài xế ta xi, xe bus (chiếm tới
30%)(16).
Thứ hai,
già hóa dân số là yếu tố kích thích nhu cầu bảo đảm an sinh, phúc lợi
xã hội đối với NCT, từ đó, tạo sức ép lớn đối với hệ thống y tế và ngân
sách mỗi quốc gia ở mọi cấp hành chính. Ở các nước phát triển, theo ước
tính năm 2010, cứ 4 người trong độ tuổi lao động (15 tuổi - 64 tuổi) sẽ
hỗ trợ 1 NCT (từ 65 tuổi trở lên); tuy nhiên, tỷ lệ này được dự đoán sẽ
giảm xuống còn 3 người trong độ tuổi lao động/1 NCT vào năm 2025(17).
Ví dụ, Nhật Bản là nước có tỷ lệ dân số trên 65 tuổi chiếm 25,1%, khoản
chi tiêu an sinh xã hội trong tổng thu nhập quốc dân của nước này đã
tăng từ 13,7% (năm 1985) lên 22,8% GDP (năm 2012), khoảng 109,5 nghìn tỷ
Yên (trong đó, lương hưu chiếm khoảng 11,2%; chi phí dịch vụ y tế chiếm
7,3%; các chế độ phúc lợi xã hội chiếm 4,3%).
Thứ ba,
tuổi cao khiến sức khỏe thể chất, tinh thần của NCT suy giảm, gặp nhiều
khó khăn trong giao tiếp, di chuyển và có thể bị rơi vào tình cảnh cô
đơn, sống tách biệt về mặt xã hội; khó tiếp cận các dịch vụ an sinh;
đồng thời, dễ trở thành nạn nhân của các vụ lừa đảo, nhất là lừa đảo sử
dụng công nghệ cao. Theo những thống kê gần đây, người dân Mỹ đã mất hơn
1 tỷ USD vì lừa đảo qua mạng; phần lớn nạn nhân là phụ nữ trên 40 tuổi
góa chồng hoặc đã ly dị và là người già yếu; ở Đông Nam Á, gần một nửa
người dùng từng là nạn nhân của các cuộc lừa đảo qua mạng, trong đó, tỷ
lệ nạn nhân tập trung chủ yếu vào các nhóm người lớn tuổi nhất (chiếm
33%)(18).
Thứ tư,
già hóa dân số gây ra sự thiếu hụt nguồn nhân lực lao động khiến nhiều
nước phải điều chỉnh chính sách nhập cư, thuê lao động nước ngoài dẫn
tới việc hình thành các nhóm lao động có sự khác biệt về văn hóa; nguy
cơ xảy ra tình trạng văn hóa ngoại lai xâm nhập, áp đảo văn hóa nội
sinh. Mặt khác, tổng số NCT tăng, tỷ suất sinh giảm gây khó khăn trong
việc truyền tiếp, kế thừa, gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống,
tiềm ẩn vấn đề đứt gãy về mặt văn hóa, ảnh hưởng nghiêm trọng tới bản
sắc và sự phát triển bền vững của mỗi cộng đồng, quốc gia - dân tộc. Bên
cạnh đó, nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng - an ninh tại các quốc gia cũng bị
ảnh hưởng; quá trình tuyển quân và tuyển dụng nhân lực vào quân đội,
lực lượng vũ trang sẽ bị giảm sút, hao hụt, khó khăn. Ví dụ: Giai đoạn
2002 - 2022, quy mô quân đội Hàn Quốc đã giảm 27,6%, khiến quốc gia này
phải áp dụng phương án kéo dài thời gian tại ngũ của quân nhân (nam giới
Hàn Quốc phải hoàn thành nghĩa vụ quân sự bắt buộc từ 18 - 21 tháng và
trở thành lính dự bị trong vòng 8 năm sau đó), đồng thời Chính phủ cũng
tính toán phương án tuyển nữ giới vào quân đội cùng với đầu tư, áp dụng
công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh(19).
MỘT SỐ GỢI MỞ, HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
Việt
Nam là quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh so với thế giới, điều
này đã và đang có ảnh hưởng, tác động toàn diện đến tình hình phát triển
kinh tế - xã hội. Theo dự báo đến năm 2050, tỷ lệ người từ độ tuổi 60
trở lên tăng hơn 25%; đặc biệt, năm 2036 sẽ bắt đầu thời kỳ chuyển dịch
từ xã hội “già hóa” sang xã hội “già” (giai đoạn quá độ từ già hóa dân
số đến dân số già chỉ diễn ra trong vòng 20 năm, trong khi ở các quốc
gia phát triển thì kéo dài hàng trăm năm). Như vậy, để chuẩn bị và xử lý
những vấn đề liên quan đến quá trình già hóa dân số, cần chú trọng
nghiên cứu, xây dựng kế hoạch, giải pháp dựa trên một số nội dung sau:
Thứ nhất,
thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách nhằm hiện thực hóa mục tiêu
bảo đảm quyền được thụ hưởng sự chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần và
nâng cao tuổi thọ đối với đối tượng là NCT(20). Ở Việt Nam,
đối tượng người cao tuổi luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm
đặc biệt; được tạo điều kiện để phát huy vai trò, kinh nghiệm trong công
cuộc phát triển đất nước. Theo đó, trước mắt cần đẩy mạnh thực hiện đạt
và vượt mục tiêu đến năm 2030 “bảo đảm 100% người cao tuổi có thẻ bảo
hiểm y tế, được quản lý sức khỏe, khám, chữa bệnh, chăm sóc tại gia
đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung”(21). Đáng chú ý,
các chính sách cần hướng đến việc công nhận năng lực, giá trị và quyền
tự chủ của những cá nhân lớn tuổi thay vì giao cho họ những nhiệm vụ
mang tính hình thức; tập trung phát triển lực lượng lao động, xây dựng
các chương trình đào tạo, cải thiện mức lương và điều kiện làm việc để
bồi dưỡng đội ngũ chăm sóc sức khỏe cho NCT.
Đảng, Nhà nước bảo đảm quyền được thụ hưởng sự chăm sóc đời sống vật
chất, tinh thần và tạo điều kiện để phát huy vai trò, kinh nghiệm trong
công cuộc phát triển đất nước của người cao tuổi. (Nguồn: TTXVN)
Thứ hai,
tích cực, chủ động trong giao lưu, học tập kinh nghiệm từ các nước trên
thế giới trong đối mặt, xử lý các vấn đề liên quan đến quá trình già
hóa dân số. Việt Nam là nước đi sau và có tốc độ nhanh hơn trong quá
trình già hóa, diễn biến phức tạp; do đó, việc nghiên cứu, học tập kinh
nghiệm của các quốc gia đi trước để có sự chuẩn bị là rất cần thiết. Đặc
biệt, chú trọng phát triển bền vững lĩnh vực kinh tế, gia tăng nguồn
tài chính dài hạn của các hộ gia đình, giúp NCT có điều kiện chuẩn bị
tốt hơn cho giai đoạn nghỉ hưu.
Thứ ba,
tạo điều kiện, hỗ trợ phụ nữ tốt hơn, như tăng thời gian nghỉ sau sinh;
có điều kiện tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản dễ dàng; gia tăng
sinh kế nhằm thoát nghèo, đủ khả năng nuôi dưỡng khi sinh con; tăng
cường giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của nam giới và nữ giới về vấn đề
mang thai, tránh thai để họ có thể đưa ra những lựa chọn sáng suốt(22).
Phải đặc biệt chú ý đến vấn đề duy trì mức sinh thay thế trên toàn
quốc, phấn đấu tăng mức sinh ở những địa phương có mức sinh thấp, hỗ trợ
chương trình y tế nhằm giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em.
Thứ tư,
đẩy mạnh đầu tư khoa học - công nghệ cho y tế; thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành ít cách biệt và giảm tỷ
trọng các ngành có sự chênh lệch lớn về năng suất lao động giữa các nhóm
tuổi; khuyến khích phát triển các ngành phục vụ, chăm sóc NCT, cũng như
các ngành kinh tế liên quan và các ngành có nhu cầu sử dụng lực lượng
lao động là NCT; thực hiện các chính sách phù hợp, khoa học đối với công
tác dân số và duy trì tỷ lệ sinh hợp lý. Mặt khác, cân nhắc, mở rộng
nghiên cứu các chính sách về lương hưu, cung cấp bảo hiểm cho mọi đối
tượng lao động để họ có thể tiếp cận tốt hơn các nguồn lực an sinh xã
hội, là cơ sở để lập kế hoạch cho giai đoạn nghỉ hưu(23).
Nâng cao tinh thần, trách nhiệm của mọi công dân trong chủ động tạo
nguồn tài chính phục vụ cuộc sống sau khi về già của cá nhân và gia
đình./.
PGS. TS. TRẦN THỌ QUANG
Tạp chí Cộng sản
TS. TRẦN TĂNG KHỞI
Học viện Chính trị khu vực III
____________________
(1) Xem: United Nations: World population ageing 2020 highlights: Living arrangements of older persons
(Những điểm chính về vấn đề hóa dân số thế giới năm 2020: Sắp
xếp lại cuộc sống cho người cao tuổi), https://www.un.org/development/desa/pd/sites/www.un.org.development.desa.pd/files/undesa_pd-2020_world_population_ageing_highlights.pdf.
(2) (8) Xem: United Nations: World Ageing Population 2013 (Già hóa dân số thế giới năm 2013), https://digitallibrary.un.org/record/826632?v=pdf.
(3) Xem: Trương Thị Ngọc Lan - Phạm Thị Giang: Thích ứng với già hóa dân số ở Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước, ngày 26/11/2020.
(4) Xem: J. Fries: Aging, natural death, and the compression of morbidity (Già hóa - cái chết tự nhiên và sức ép của bệnh tật), https://www.researchgate.net/publication/15816171_Aging_Natural_Death_and_the_Compression_of_Morbidity.
(5) Xem: M. VerbiČ: The ageing population and the associated
challenges of the Slovenian pension system (Dân số già và
những thách thức tác động đến hệ thống lương hưu ở Slovenia), Financial theory and practice, 2008, số 32, tr. 321-338.
(6) Xem: M. Bussolo, J. Koettl và E. Sinnott: Golden aging: Prospects
for healthy, active, and prosperous aging in Europe and Central Asia (Già hóa vàng: Triển vọng về tuổi già khỏe mạnh, năng động và
thịnh vượng ở châu Âu và Trung Á), The World Bank, Working Paper, 2015; A. Gray: Population Ageing and Health Care Expenditure (Già hóa dân số và chi tiêu y tế, chăm sóc sức khỏe), Ageing Horizons, 2019, tr. 15-20.
(7) Xem: P. Lloyd Sherlock, M. McKee và et al: Population ageing and health (Già hóa dân số và sức khỏe), https://www.thelancet.com/journals/lancet/article/PIIS0140-6736(12)60519-4/fulltext.
(9) Xem: United Nation: World social report 2023: Leaving no one behind in an ageing world (Báo cáo tình hình xã hội thế giới năm 2023: Không để ai bị bỏ lại phía sau trong một thế giới già hóa), https://www.un-ilibrary.org/content/books/9789210019682/read.
(10) Xem: Shogo Kudo, Emmanuel Mutisya và Masafumi Nagao: Population
aging: An emerging research agenda for sustainable development (Già hóa dân số: Một chương trình nghiên cứu mới về phát triển bền
vững), https://www.mdpi.com/2076-0760/4/4/940.
(11) Xem: Caring for older people in age-friendly communities (Chăm sóc người cao tuổi trong cộng đồng thân thiện với người già),
https://redcross.eu/latest-news/caring-for-older-people-in-age-friendly-communities_ftn1.
(12) Xem: Việt Nam và Nhật Bản trao đổi kinh nghiệm chăm sóc người cao tuổi, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 29/8/2023.
(13) Xem: Bùi Nghĩa, Nguyễn Hữu Hoàng, Nguyễn Thị Hoa: Chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2020.
(14) Xem: Gia Linh: Già hóa dân số ở một số nước châu Á, Tạp chí Con số và sự kiện điện tử, ngày 21/1/2022,.
(15) Xem: Lâm Anh: Nỗi lo dân số già của EU, Báo Quân đội nhân dân điện tử, ngày 11/11/2023.
(16) Xem: Đức Trung: Gần 40% công ty ở Nhật Bản thuê lao động trên 70 tuổi, Báo điện tử VNExpress, ngày 26/8/2023.
(17) Xem: National Intellegence Council: Global trends 2025: A transformed world (Những xu hướng toàn cầu năm 2025: Một thế giới đã thay đổi), https://www.dni.gov/files/documents/Newsroom/Reports%20and%20Pubs/2025_Global_Trends_Final_Report.pdf.
(18) Xem: Hà Linh: Người già dễ bị lừa đảo qua mạng, Báo Tuổi trẻ Thủ đô điện tử, ngày 4/10/2023.
(19) Xem: Cẩm Bình: "Kẻ thù mới” của quân đội Hàn Quốc, Tạp chí Một thế giới điện tử, ngày 31/12/2023.
(20) Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 27/9/1995, của Ban Bí thư về "Chăm sóc
người cao tuổi” xác định nhiệm vụ chăm sóc, phát huy vai trò người cao
tuổi là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội; Luật Người cao
tuổi năm 2009; Quyết định số 544/QĐ-TTg, ngày 25/4/2015 của Thủ tướng
Chính phủ về “Tháng hành động vì người cao tuổi Việt Nam”, đây là dịp
kêu gọi sự hưởng ứng tích cực của toàn xã hội cùng tham gia chăm sóc
người cao tuổi; Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Hội nghị
Trung ương 6 khóa XII về "Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới” xác định nhiệm vụ bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe là quyền lợi, nghĩa vụ của mọi người, gia
đình, cộng đồng, xã hội, dân tộc, quốc gia; Quyết định số 1125/QĐ-TTg,
ngày 31/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Chương trình mục
tiêu Y tế - Dân số giai đoạn 2016 - 2020”,...
(21) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.271.
(22) Xem: Positive News: 5 possible solutions to overpopulation (5 giải pháp khả thi cho tình trạng dân số quá tải), https://www.positive.news/society/5-possible-solutions-overpopulation/.
(23) Theo đó, mọi người cần xác định rõ kế hoạch chi tiêu và phương
thức dự định tích lũy tài sản đến tuổi nghỉ hưu để tạo nguồn tài chính
đáp ứng các nhu cầu cuộc sống, tránh lạm dụng sự hỗ trợ từ nhà nước. Mặt
khác, nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, xác định đối tượng phù hợp được
hỗ trợ, như những người không may gặp vấn đề về sức khỏe, hoàn cảnh khó
khăn,… thay vì cung cấp chung các khoản chi tiêu dành cho NCT dưới mọi
hình thức.
(Nguồn: TC Cộng sản)