NHỮNG KẾT QUẢ ĐÁNG GHI NHẬN
Đại
hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước đã trải qua 35 năm
đổi mới; công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã
giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tiềm lực quốc
gia, dân tộc được tăng cường về mọi mặt. Trong nửa đầu nhiệm kỳ, đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch
COVID-19, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường,
các chủ trương lớn trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về giáo dục,
đào tạo vẫn được cả hệ thống chính trị tập trung chỉ đạo và tổ chức thực
hiện nghiêm túc, với tinh thần trách nhiệm cao, tạo sự chuyển biến tích
cực, đạt được nhiều kết quả quan trọng, đáng ghi nhận.
Trước
hết, hệ thống chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo được rà
soát, cập nhật và tiếp tục hoàn thiện, từng bước tháo gỡ các nút thắt,
vướng mắc, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện chủ trương đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở các cấp học, trình độ. Trong
nửa đầu nhiệm kỳ, đã có trên 100 văn bản quy phạm pháp luật, văn bản
hướng dẫn, chỉ đạo(1) được ban hành, trong đó có nhiều văn
bản quan trọng, như Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn
2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định phê duyệt quy hoạch mạng
lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm
2045... Nhiều chính sách được rà soát, bổ sung, ban hành mới, như quy
định về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; cơ chế
thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch
vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; Chương trình “Hỗ trợ phát triển
giáo dục mầm non vùng khó khăn giai đoạn 2022 - 2030”...
Hệ
thống giáo dục quốc dân tiếp tục được hoàn thiện. Quy mô giáo dục và
mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển, cơ hội tiếp cận giáo dục có chất
lượng được mở rộng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của người dân. Cả
nước có 37.619 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập; 18.557 trung
tâm giáo dục thường xuyên; 4 trường dự bị đại học; 242 cơ sở giáo dục
đại học(2); 1.888 cơ sở giáo dục nghề nghiệp(3)...
Về giáo dục mầm non, tỷ lệ huy động trẻ đến trường đạt 70,4%(4),
trong đó cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi.
Có 56/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành nghị quyết của
hội đồng nhân dân, quy định chi tiết chính sách đối với giáo dục mầm non(5).
Về giáo dục phổ thông, việc
đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông theo tinh thần
Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI về "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” và Nghị quyết số
88/2014/QH13, ngày 28/11/2014 của Quốc hội về "Đổi mới chương trình,
sách giáo khoa giáo dục phổ thông” đã tạo chuyển biến tích cực, đạt
được nhiều kết quả quan trọng, đáng ghi nhận. Chương trình giáo dục phổ
thông mới được ban hành năm 2018, triển khai trên phạm vi cả nước từ năm
học 2020 - 2021 theo đúng lộ trình quy định tại Nghị quyết số
51/2017/QH14, ngày 21/11/2017 của Quốc hội, về “Điều chỉnh lộ trình
thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới theo Nghị
quyết số 88/2014/QH13, ngày 28/11/2014 của Quốc hội về "Đổi mới chương
trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”. Chương trình đã thay đổi từ
truyền thụ kiến thức sang định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học
sinh; xác định rõ 5 phẩm chất và 10 năng lực chủ yếu, cốt lõi cần phát
triển đối với học sinh phổ thông; đổi mới đồng bộ về nội dung, phương
pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá. Nội dung các môn học được xây dựng
theo hướng giảm tải, tăng cường thực hành, gắn với thực tiễn đời sống.
Hệ thống sách giáo khoa, tài liệu giáo dục được tổ chức biên soạn, thẩm
định, phê duyệt, in và phát hành cơ bản đúng tiến độ, đáp ứng nhu cầu
dạy và học. Chất lượng giáo dục toàn diện tiếp tục được nâng lên. Học
sinh phát huy tính chủ động, sáng tạo, giáo viên đóng vai trò là người
tổ chức, kiểm tra, định hướng. Tỷ lệ trẻ em khuyết tật có khả năng học
tập được tiếp cận với giáo dục và tham gia học tập ở cấp tiểu học và
trung học cơ sở tăng lên.
Đội
ngũ nhà giáo được tiếp tục chăm lo, phát triển cả về số lượng và chất
lượng. Tính đến hết năm học 2022 - 2023, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn theo
Luật Giáo dục (năm 2019) của cấp trung học cơ sở là 90,3%, cấp trung học
phổ thông là 99,9%(6). Năng lực sư phạm của phần lớn giáo
viên được nâng lên, bước đầu đáp ứng được yêu cầu cơ bản về đổi mới nội
dung, phương pháp dạy học.
Hệ thống cơ sở vật chất, thiết bị dạy học tiếp tục được quan tâm đầu tư. Năm học 2022 - 2023, tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 85%(7). Tỷ lệ trường có thư viện ở cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông lần lượt đạt 92,9%, 88,9% và 86,4%(8).
Đã huy động được nhiều tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục
tư thục, hỗ trợ kinh phí cải thiện cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị dạy
học, biên soạn sách giáo khoa.
Không gian đọc sách, tương tác và
sinh hoạt đội tại Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học và trung học
cơ sở Đoàn Kết (huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn). (Nguồn: TTXVN)
Quy
mô và mạng lưới các cơ sở giáo dục thường xuyên phát triển đa dạng, đáp
ứng nhu cầu học tập thường xuyên, học tập suốt đời của người dân. Trong
năm học 2022 - 2023, có gần 16,5 triệu lượt người học tham gia các lớp
chuyên đề phổ biến cập nhật kiến thức, kỹ năng và các lớp bồi dưỡng
thường xuyên khác tại các trung tâm học tập cộng đồng (tăng 2.066.770
lượt người học so với năm học 2021 - 2022 và tăng hơn 2.500.000 lượt
người học so với năm học 2020 - 2021); huy động được 17.367
người học các lớp xóa mù chữ giai đoạn 1 (tăng 6.366 người so với năm
học 2021 - 2022) và 15.125 người học các lớp xóa mù chữ giai đoạn 2
(tăng 6.268 người so với năm học 2021 - 2022). Đến nay, cả nước
có 76,19% đơn vị cấp tỉnh; 93,62% đơn vị cấp huyện và 97,67% đơn vị cấp
xã đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2. Tỷ lệ người trong độ tuổi 15 tuổi -
60 tuổi biết chữ mức độ 1 và mức độ 2 đạt lần lượt là 98,85% và 97,29%(9).
Giáo
dục đại học tiếp tục phát triển về quy mô và chất lượng, cơ cấu ngày
càng hợp lý, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Số lượng
cơ sở giáo dục đại học tăng dần, năm học 2022 - 2023(10) đã
vượt 18 trường so với quy mô được xác định trong quy hoạch theo Quyết
định số 37/2013/QĐ-TTg, ngày 26/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về
việc "Điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai
đoạn 2006 - 2020”. Mô hình quản lý đối với các cơ sở giáo dục đại học
khá đa dạng(11). Quy mô đào tạo tăng dần trong 10 năm qua,
đạt xấp xỉ 2,1 triệu sinh viên đại học và 120 nghìn học viên sau đại
học, bảo đảm số lượng và cơ cấu trình độ nhân lực phù hợp với quy hoạch
phát triển nhân lực giai đoạn 2011 - 2020. Cơ cấu ngành đào tạo dịch
chuyển tích cực, thích ứng nhanh nhu cầu của thị trường lao động; số
sinh viên các ngành kỹ thuật và công nghệ tăng đáng kể; nhiều ngành mới
được mở đáp ứng yêu cầu phát triển của khoa học, công nghệ và cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Cơ sở vật chất của nhiều trường đại học
được tăng cường. Một số trường được đầu tư các phòng thí nghiệm hiện
đại, đáp ứng tốt nhiệm vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học. Quy
mô và chất lượng giảng viên được nâng lên. Gắn kết đào tạo với nghiên
cứu khoa học có nhiều chuyển biến tích cực. Số lượng công trình công bố
trong nước và quốc tế, số sáng chế, tài sản trí tuệ của đội ngũ giảng
viên đại học tăng dần qua các năm(12).
Chất
lượng giáo dục đại học được nâng lên, từng bước tiếp cận tiêu chuẩn
quốc tế. Đến tháng 7/2023, tỷ lệ cơ sở giáo dục đại học được kiểm
định là 79,4%; tỷ lệ chương trình đào tạo được kiểm định là 13% (trong
đó, có 6% được kiểm định quốc tế). Theo kết quả xếp hạng các quốc gia về
lĩnh vực giáo dục năm 2021 của Tạp chí U.S News (đơn vị xếp hạng uy tín
nhất của Mỹ về khía cạnh học thuật của các trường đại học)(13),
Việt Nam xếp thứ 59, tăng 5 bậc so với năm 2020. Một số cơ sở giáo dục
đại học Việt Nam tiếp tục được xếp hạng cao và tăng thứ bậc trên các
bảng xếp hạng uy tín quốc tế. Chất lượng sinh viên tốt nghiệp từng bước
được cải thiện và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động; tỷ lệ
sinh viên sau khi tốt nghiệp có việc làm duy trì ở mức cao(14); niềm tin của người học và xã hội vào chất lượng và hiệu quả đào tạo được củng cố(15).
Hệ
thống giáo dục nghề nghiệp được hình thành theo hướng mở, liên thông,
cơ bản phù hợp với các nước trên thế giới. Quy hoạch mạng lưới cơ sở
giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được
ban hành, tạo cơ sở để sắp xếp, tinh gọn đầu mối, ưu tiên các nguồn lực
đầu tư. Chương trình đào tạo, cơ sở vật chất và trình độ, năng lực đội
ngũ nhà giáo từng bước được chuẩn hóa, hiện đại hóa. Nhiều dự án, đề án
hợp tác với các tổ chức, đối tác quốc tế được ký kết và triển khai. Hoạt
động kết nối cung - cầu lao động được quan tâm. Tỷ lệ người lao động
qua đào tạo nghề có bằng cấp, chứng chỉ và tỷ lệ người lao động có việc
làm phù hợp với kỹ năng nghề và trình độ đào tạo tăng. Kết quả của giáo
dục nghề nghiệp đã góp phần quan trọng hình thành đội ngũ lao động lành
nghề, xây dựng giai cấp công nhân, nông dân hiện đại phục vụ cho phát
triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Học sinh tham gia hoạt động trải nghiệm, sáng tạo. (Nguồn: TTXVN)
MỘT SỐ HẠN CHẾ
Bên
cạnh những kết quả quan trọng, đáng ghi nhận, việc thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trên lĩnh vực giáo
dục, đào tạo vẫn còn một số hạn chế:
Thứ nhất,
thể chế và chính sách phát triển giáo dục, đào tạo chưa được ban hành
đồng bộ. Công tác ban hành văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn triển
khai thực hiện còn bất cập, một số văn bản chưa bảo đảm yêu cầu về tiến
độ và chất lượng, có nội dung chưa phù hợp với quy định của pháp luật và
yêu cầu của thực tiễn. Các chiến lược, quy hoạch quan trọng liên quan
tới giáo dục, đào tạo thời kỳ 2021 - 2030 chậm được phê duyệt, ảnh hưởng
đến việc triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo.
Thứ hai,
mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non chưa đồng đều giữa các vùng, miền, khu
vực, địa bàn; chưa bảo đảm cơ hội tiếp cận giáo dục công bằng giữa các
đối tượng, nhóm yếu thế. Công tác quy hoạch, đầu tư, xây dựng cơ sở giáo
dục mầm non tại nhiều địa phương chưa theo kịp yêu cầu phát triển và
nhu cầu của người dân. Công tác quản lý đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất
tại các cơ sở giáo dục mầm non, điểm trông giữ trẻ, nhất là khối ngoài
công lập còn nhiều hạn chế.
Thứ ba,
việc triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 còn
nhiều bất cập, thời gian chuẩn bị ngắn, công tác bảo đảm các điều kiện
về giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị gặp nhiều khó khăn, lúng
túng. Việc biên soạn, thực nghiệm, thẩm định, cung ứng, phát hành, lựa
chọn sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thông mới còn nhiều
bất cập. Nhận thức, thói quen của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục,
giáo viên và học sinh về phương pháp giáo dục, thi, kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập chậm thay đổi, chưa theo kịp yêu cầu của chương trình
giáo dục phổ thông mới. Việc tổ chức hoạt động giáo dục và các môn học,
như mỹ thuật, âm nhạc, chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu, yêu cầu đặt ra.
Việc xây dựng các tổ hợp môn học tại cấp trung học phổ thông còn bất
cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu định hướng nghề nghiệp và nhu cầu của
học sinh. Kết quả đổi mới phương pháp dạy và học ở nhiều cơ sở giáo dục
chưa cao, nhất là ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn. Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ và thiếu giáo viên dạy các
môn học mới diễn ra phổ biến. Cả nước còn thiếu 62.877 giáo viên phổ
thông(16); thừa cục bộ 5.091 giáo viên(17). Cơ cấu
đội ngũ giáo viên chưa phù hợp; chất lượng giáo viên không đồng đều.
Việc tuyển dụng giáo viên còn gặp khó khăn, vướng mắc, nhất là giáo viên
các môn âm nhạc, mỹ thuật đạt chuẩn.
Ngân
sách nhà nước chưa bảo đảm được đầy đủ nhu cầu triển khai đổi mới
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; tỷ lệ chi thường xuyên
cho giáo dục chủ yếu là chi lương; chi dành cho các hoạt động giáo dục
nhìn chung thấp, không đáp ứng được yêu cầu của Chương trình. Hầu hết
địa phương, nhất là những nơi chưa cân đối được ngân sách, gặp khó khăn
về kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học. Số phòng học
chưa được kiên cố hóa còn lớn, tập trung chủ yếu ở những vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Còn thiếu nhiều phòng học, nhất
là ở khu vực đô thị, địa bàn có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất. Tỷ
lệ đáp ứng thiết bị dạy học theo chuẩn quy định trên phạm vi cả nước
thấp, trung bình chỉ đáp ứng được 54,3%.
Thứ tư,
chất lượng giáo dục thường xuyên còn hạn chế, chất lượng “đầu vào”
thấp. Đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng và bất cập về cơ cấu. Cơ sở
vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu. Tỷ lệ huy động người học xóa
mù chữ ở vùng biên giới, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn còn thấp, kết quả xóa mù chữ chưa
bền vững. Công tác điều tra, rà soát số người mù chữ chưa được coi
trọng, số liệu chưa được cập nhật thường xuyên và chưa chính xác.
Thứ năm,
việc xây dựng, ban hành quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và
sư phạm đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 chậm tiến độ. Số lượng và
quy mô các cơ sở giáo dục đại học còn hạn chế, phát triển không đồng
đều; nhiều trường quy mô nhỏ, lĩnh vực đào tạo hẹp và hoạt động kém hiệu
quả. Quy mô đào tạo và tỷ lệ sinh viên đại học/vạn dân thấp hơn một số
nước có điều kiện tương đồng trong khu vực và trên thế giới(18). Quy mô đào tạo sau đại học ở nước ta còn thấp và không tăng trong nhiều năm(19), đặc biệt là đào tạo sau đại học khối ngành tích hợp khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán học (STEM) có xu hướng giảm mạnh(20).
Một số ngành quan trọng đối với phát triển bền vững của đất nước, như
khoa học tự nhiên, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản... gặp khó khăn
trong tuyển sinh. Điều kiện hạ tầng của hầu hết cơ sở giáo dục đại học
Việt Nam còn ở mức độ thấp so với các cơ sở giáo dục đại học trong khu
vực và thế giới. Tỷ lệ sinh viên/giảng viên và tỷ lệ giảng viên có trình
độ tiến sĩ đều thấp so với chuẩn mực chung của thế giới(21). Trong toàn hệ thống, còn khoảng 40% cơ sở giáo dục đại học có tỷ lệ dưới 20% giảng viên cơ hữu đạt trình độ tiến sĩ trở lên.
Chất
lượng giáo dục của các cơ sở đào tạo không đồng đều giữa các khối
ngành; chênh lệch rõ rệt giữa nhóm các trường đầu ngành tại các thành
phố lớn và các trường ở các tỉnh. Khoảng cách giữa kết quả đánh giá, xếp
loại chất lượng đào tạo trong nhà trường với yêu cầu thực tiễn của nhà
tuyển dụng còn khá xa. Nguồn nhân lực được đào tạo chỉ đáp ứng chủ yếu
nhu cầu đại trà, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao.
Hoạt
động của cơ sở giáo dục đại học chịu sự quản lý của nhiều cơ quan khác
nhau, dẫn tới khó khăn, vướng mắc trong đổi mới quản trị đại học, nhất
là trong thực hiện tự chủ về tài chính và về tổ chức bộ máy, nhân sự.
Kinh phí đầu tư cho giáo dục đại học thấp, có xu hướng bị cắt giảm; chưa
xác định được chiến lược đầu tư hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm để
phát triển các cơ sở giáo dục đại học. Chính sách xã hội hóa giáo dục
chưa đạt hiệu quả, chưa thực sự khuyến khích các thành phần xã hội tham
gia đầu tư phát triển giáo dục đại học. Hoạt động nghiên cứu của các
trường đại học chưa gắn nhiều với thực tiễn, yêu cầu của thị trường, khả
năng ứng dụng thấp. Tỷ lệ bài báo, công trình khoa học công bố trên số
giảng viên của Việt Nam còn thấp so với trung bình trên thế giới(22).
Thứ sáu,
quy mô giáo dục nghề nghiệp còn nhỏ; cơ cấu ngành, nghề, trình độ đào
tạo chưa phù hợp; chất lượng, hiệu quả đào tạo chưa cao, nhất là đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao, ngành, nghề mới, kỹ năng tiên tiến. Gắn
kết giữa Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp chưa chặt chẽ. Hình thức,
phương pháp tổ chức đào tạo chậm đổi mới, chưa đa dạng, linh hoạt để đáp
ứng kịp thời nhu cầu của thị trường lao động. Công tác đào tạo lại, đào
tạo thường xuyên cho người lao động chưa được chú trọng, chưa tạo được
cơ hội và khuyến khích người lao động tham gia học tập suốt đời. Việc
chuyển giao, nhân rộng các chương trình theo chuẩn quốc tế còn khó khăn,
thiếu đồng bộ. Nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp thiếu tích cực, chủ
động trong chuyển đổi cơ cấu ngành, nghề, đổi mới chương trình đào tạo.
Nguồn lực đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp chưa tương xứng; cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học, thí nghiệm, thực hành nghề còn nghèo nàn.
Những
hạn chế nêu trên chủ yếu là do nhận thức của một bộ phận cán bộ quản lý
giáo dục, giáo viên về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chưa đầy đủ, sâu sắc, toàn diện.
Trình độ, năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ, giáo viên còn hạn
chế. Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan tham mưu ở một
số địa phương chưa rõ; chưa quyết liệt, kịp thời xử lý, tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc phát sinh. Công tác tuyên truyền, quán triệt chưa được
chú trọng đúng mức. Công tác dự báo, lập kế hoạch, lộ trình đổi mới chưa
sát. Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành trung ương và địa phương chưa
chặt chẽ, thường xuyên. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục, đào tạo
chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Chính sách, chế độ đãi ngộ chưa đáp ứng
yêu cầu thu hút, giữ chân đội ngũ giáo viên, giảng viên, nhất là đội ngũ
nhân lực chất lượng cao. Chưa có chính sách đột phá để khuyến khích,
thu hút nguồn lực ngoài nhà nước tham gia phát triển giáo dục, đào tạo.
Sinh viên thực hành lập trình điều
khiển cánh tay robot tại Trung tâm đào tạo sản xuất thông minh
HNIVC-FUNA của Trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội phối hợp với đối tác
quốc tế thành lập. (Nguồn: TTXVN)
MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM TỪ NAY ĐẾN CUỐI NHIỆM KỲ
Trước yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn mới, để thực hiện hiệu quả hơn nữa Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng, từ nay đến cuối nhiệm kỳ cần tập trung
thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một
là, tiếp tục tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta, là vấn đề đặc biệt quan trọng, phức tạp, nhạy cảm, có phạm vi
tác động lớn. Do đó, để bảo đảm thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm
vụ đề ra, cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự chủ động, sáng
tạo của nhân dân và toàn xã hội. Trong thời gian tới, cần tăng cường
thực hiện một cách triệt để, sâu rộng và hiệu quả hơn công tác tuyên
truyền, quán triệt về mục tiêu, yêu cầu, nội dung đổi mới giáo dục và
đào tạo, đặc biệt là đối với đội ngũ lãnh đạo các cấp, cán bộ quản lý
giáo dục và đội ngũ giáo viên, tạo sự thống nhất, thông suốt trong lãnh
đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện; tạo sự tin tưởng, đồng thuận, ủng hộ
của các tầng lớp nhân dân. Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền, đẩy
mạnh tự chủ, bảo đảm vai trò kiến tạo để phát triển giáo dục. Tăng
cường thanh tra, kiểm tra, giám sát; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động thanh tra nội bộ của cơ sở giáo dục gắn với trách nhiệm giải trình.
Đẩy mạnh chuyển đổi số, cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông
tin, hội nhập quốc tế, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ
của nước ngoài cho giáo dục và đào tạo.
Tổng
kết, đánh giá việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy và quản lý, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Tiếp tục khẳng định và làm rõ vai trò quản lý nhà nước đối với các
trường đại học, đặc biệt là vấn đề quản lý chất lượng; phát triển các
trung tâm đào tạo, nghiên cứu mũi nhọn; phát triển các lĩnh vực đặc thù,
như đầu tư cho khoa học cơ bản, phục vụ lực lượng vũ trang, các ngành
đặc biệt, như sư phạm, ngành y, khí tượng...
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Tiếp
tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát
triển giáo dục, đào tạo và nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành. Kịp thời
hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu
quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của cơ sở giáo dục và
đào tạo; gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng
thành tựu khoa học, công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu
xuất sắc, các nhóm nghiên cứu mạnh. Kịp thời ban hành các văn bản quan
trọng, có tính chất định hướng, như Chiến lược phát triển giáo dục và
đào tạo giai đoạn đến năm 2030; quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại
học và sư phạm; quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với
người khuyết tật và hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa
nhập thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tiếp tục thể chế hóa
chủ trương của Đảng về lĩnh vực giáo dục, đào tạo, như phân định rõ công
tác quản lý nhà nước và quản trị của các cơ sở giáo dục theo Kết luận
số 51-KL/TW, ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về "Tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế”; Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 4/52023 của Ban Bí thư về "Tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi
hành các nội dung mới trong Luật Giáo dục năm 2019 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018. Sơ kết, đánh giá
khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành Luật Giáo dục nhằm tháo gỡ
vướng mắc liên quan đến cơ chế tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ
sở giáo dục. Sớm xây dựng và ban hành Luật Nhà giáo để cụ thể hóa chính
sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành giáo dục.
Ba
là, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cần gắn kết chặt chẽ
hơn nữa với các nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược theo tinh
thần Đại hội XIII của Đảng.
Đối với giáo dục mầm non,
cần tập trung thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 5/1/2024,
của Bộ Chính trị về "Công tác phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa
mù chữ cho người lớn và đẩy mạnh phân luồng học sinh trong giáo dục phổ
thông”, trong đó ưu tiên phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo từ 3
đến 5 tuổi theo hướng tiếp tục đầu tư phát triển, mở rộng mạng lưới
trường mầm non công lập; đồng thời, nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo
dục trẻ em. Cải thiện năng lực giáo viên mầm non, tăng lương và thu nhập
cho giáo viên mầm non. Đẩy mạnh xã hội hóa; bổ sung, hoàn thiện các
chính sách theo hướng hấp dẫn hơn để thu hút đầu tư phát triển hệ thống
trường mầm non ngoài công lập. Quản lý chặt chẽ các cơ sở giáo dục mầm
non ngoài công lập, nhất là các nhóm trẻ độc lập; hỗ trợ đào tạo, nâng
cao kiến thức, kỹ năng chăm sóc trẻ cho giáo viên dạy tại các nhóm trẻ
độc lập, lớp mẫu giáo độc lập, lớp mầm non độc lập.
Đối với giáo dục phổ thông,
tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông
2018 theo Nghị quyết số 686/NQ-UBTVQH15, ngày 18/9/2023 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về "Giám sát việc thực hiện Nghị quyết số
88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”. Trong đó, tập trung
giải quyết dứt điểm tình trạng thừa, thiếu giáo viên; bảo đảm đầy đủ cơ
sở vật chất, trang thiết bị dạy học; tiếp tục đổi mới phương pháp dạy
học, phương thức thi, kiểm tra, đánh giá. Triển khai hiệu quả Chỉ thị số
08/CT-TTg, ngày 1/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc "Tăng cường
triển khai công tác xây dựng văn hóa học đường”. Đây là chủ trương lớn
cần được kiên trì tổ chức, triển khai thực hiện.
Đối với giáo dục đại học,
cần thực hiện các giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng giáo dục đại
học gắn với tăng quy mô phù hợp, có cơ cấu ngành, nghề hợp lý. Một
trong những giải pháp trọng tâm là khắc phục vướng mắc, bất cập trong
các quy định về tự chủ đại học, theo hướng đi vào chiều sâu, thực chất
gắn với thực hiện trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch thông
tin. Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao làm giảng viên
đại học. Có chính sách học bổng hợp lý để thu hút sinh viên giỏi vào một
số ngành quan trọng, phục vụ phát triển bền vững đất nước. Tăng cường,
nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trong các trường đại học. Đầu
tư, phát triển hệ thống cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu, giảng dạy cho
một số trường đại học trọng điểm; phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp;
chú trọng chuyển đổi số....
Đối với giáo dục nghề nghiệp,
sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp; xác định rõ nhóm ngành,
nghề cơ bản cần đào tạo; bảo đảm chất lượng đào tạo nghề, nhất là kỹ
năng, kiến thức nền tảng để tham gia thị trường lao động. Đa dạng hóa
phương thức đào tạo, phát triển chương trình đào tạo theo hướng mở, linh
hoạt, phân bổ hợp lý về cơ cấu ngành, nghề, trình độ, vùng, miền, đáp
ứng chuẩn đầu ra tiệm cận với chuẩn khu vực và thế giới. Tăng cường phối
hợp giữa nhà trường, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, gắn đào tạo với nhu
cầu sử dụng lao động; khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề,
giải quyết việc làm cho người lao động sau đào tạo. Đẩy mạnh dự báo nhu
cầu về đào tạo nghề nghiệp, ưu tiên ngành, nghề công nghệ mới, công nghệ
cao.
Bốn
là, tăng cường đầu tư, bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học, nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục
Tập
trung nguồn lực, tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo, bảo đảm
“giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Có chiến lược đầu tư bài bản, nghiêm
túc cho giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp tương xứng với các nước
phát triển trên thế giới, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đẩy mạnh thu hút các nguồn lực xã hội,
thực hiện lồng ghép với các chương trình mục tiêu quốc gia để tăng
cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học bảo đảm thực hiện
tốt Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Nâng cao chất lượng, chuẩn
hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp, trong đó có
giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số. Tiếp tục triển khai lộ trình nâng
chuẩn trình độ đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở
theo quy định.
Có
chính sách thỏa đáng để thúc đẩy các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục
nghề nghiệp phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, nghiên
cứu khoa học và phục vụ cộng đồng. Ưu tiên đầu tư phát triển một số cơ
sở giáo dục đại học, ngành đào tạo mang tầm khu vực, quốc tế;
phát triển một số ngành đặc thù, cơ sở giáo dục đại học có đủ năng lực
để thực hiện nhiệm vụ chiến lược quốc gia, nhiệm vụ phát triển vùng của
đất nước. Xem xét cụ thể hóa cơ chế hỗ trợ đầu tư theo dự án, chương
trình, mục tiêu và đặt hàng của Nhà nước trên cơ sở năng lực, uy tín và
chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các
nhà trường, không phân biệt loại hình sở hữu của cơ sở giáo dục đại
học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp./.
PGS. TS. NGUYỄN ĐẮC VINH
Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội
____________________
(1) Quốc hội đã ban hành 5 nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành ban hành 7 nghị định, 17 quyết định, 4 chỉ thị, 65 thông tư. Ngoài ra, còn có 20 quyết định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
(2) (4) (5) (6) (9) Xem: Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2022 - 2023, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2023 - 2024, ngày 18/8/2023, của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
(3) Xem: Báo cáo số 66/BC-LĐTBXH, ngày 30/5/2023, của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, về một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV.
(7) Cụ thể: đối với cấp mầm non: 79,5%; đối với cấp tiểu học: 82,0%; đối với cấp trung học cơ sở: 93,7%; đối với cấp trung học phổ thông: 96,4% (Xem: Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2022 - 2023, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2023 - 2024, ngày 18-8-2023, của Bộ Giáo dục và Đào tạo).
(8) Xem: Báo cáo số 584/BC-ĐGS, ngày 11/8/2023, của Đoàn giám sát Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về “Việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”.
(10) Chưa tính các trường thuộc khối công an, quân đội; đồng thời, 2 đại học quốc gia và 3 đại học vùng có tổng cộng 37 trường đại học thành viên, cụ thể: Đại học Quốc gia Hà Nội có 9 trường đại học thành viên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh có 7 trường đại học thành viên, Đại học Thái Nguyên có 7 trường đại học thành viên, Đại học Đà Nẵng có 6 trường đại học thành viên và Đại học Huế có 8 trường đại học thành viên.
(11) Hai đại học quốc gia trực thuộc Chính phủ có nhiều trường đại học thành viên, viện nghiên cứu thành viên và các trường, khoa trực thuộc. Ba đại học vùng trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo có nhiều trường đại học, viện nghiên cứu thành viên, trường, khoa trực thuộc và có thể có cả trung tâm đào tạo từ xa. Các trường đại học trực thuộc các bộ, ngành khác nhau có cơ cấu tổ chức bao gồm các khoa và bộ môn trực thuộc. Cả nước có 68 trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân thực hiện đào tạo các trình độ của giáo dục đại học (trong đó, có 28 trường thuộc lực lượng vũ trang, 8 trường thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, nhưng không phải là cơ sở giáo dục đại học và 32 trường thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng).
(12) Số lượng công trình khoa học trên tạp chí Web of Science (WoS) tăng từ 2.107 năm 2016 lên 7.502 năm 2020 (tăng 3,56 lần); số bài báo công bố trên tạp chí Scopus tăng từ 4.735 bài năm 2016 lên 19.888 bài năm 2020 (tăng 4,20 lần).
(13) Kết quả xếp hạng giáo dục quốc gia của Tạp chí U.S News dựa trên khảo sát toàn cầu về ba thuộc tính cùng trọng số của mỗi quốc gia: có hệ thống giáo dục công phát triển tốt; mọi người có cân nhắc theo học đại học ở đó hay không; quốc gia đó có cung cấp nền giáo dục chất lượng hàng đầu hay không.
(14) Theo báo cáo khảo sát độc lập của Trung tâm cung ứng và hỗ trợ phát triển nhân lực (Bộ Giáo dục và Đào tạo), tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm có xu hướng tăng trong 3 năm 2019 - 2021 và đạt trung bình toàn quốc trên 90%. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2020 - 2022 tỷ lệ thất nghiệp của người lao động có trình độ đại học trở lên giảm từ 4,26% xuống 3,16%; tỷ lệ này đối với người tốt nghiệp thạc sĩ giảm từ 1,3% xuống 0,6%.
(15) Kết quả tuyển sinh phản ánh rõ nét khả năng có việc làm của sinh viên tốt nghiệp và niềm tin của xã hội đối với chất lượng, hiệu quả đào tạo. Sau một giai đoạn tăng trưởng “nóng”, quy mô tuyển sinh và đào tạo đạt cao nhất vào năm 2014, nhưng đã giảm mạnh 4 năm liên tiếp và xuống thấp nhất vào năm 2018. Nguyên nhân là do nguồn lực chưa được đầu tư phát triển tương xứng với quy mô. Hệ thống giáo dục đại học đã nhận rõ điều này, cùng với nỗ lực đẩy mạnh triển khai tự chủ đại học, đã huy động nguồn lực đầu tư nâng cao chất lượng, do vậy, từ năm 2019 kết quả tuyển sinh, quy mô đào tạo đã hồi phục và tăng trở lại với mức tăng khá.
(16) Trong đó, cấp tiểu học thiếu 32.943, cấp trung học cơ sở thiếu 18.097, cấp trung học phổ thông thiếu 11.837 giáo viên (Báo cáo số 584/BC-ĐGS, ngày 11/8/2023, của Đoàn giám sát Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về “Việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”).
(17) Trong đó, cấp tiểu học thừa cục bộ 2.302 giáo viên, cấp trung học cơ sở thừa cục bộ 2.650 giáo viên, cấp trung học phổ thông thừa cục bộ 139 giáo viên (Báo cáo số 584/BC-ĐGS, ngày 11/8/2023, của Đoàn giám sát Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về “Việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”).
(18) Tổng số sinh viên đại học của Việt Nam năm 2021 là khoảng 2,1 triệu, đạt 215 sinh viên/vạn dân. So với khu vực Đông Nam Á (ASEAN), tỷ lệ này tương đương với Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po (sau Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a và Thái Lan), nhưng thấp hơn mức trung bình của các quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD): 290/vạn dân.
(19) Quy mô đào tạo sau đại học năm 2021 của Việt Nam đạt xấp xỉ 110.000 học viên cao học và 12.000 nghiên cứu sinh, tính tỷ lệ trên dân số chưa bằng 1/3 so với Ma-lai-xi-a và Thái Lan, chỉ bằng 1/2 so với Xin-ga-po và Phi-líp-pin, xấp xỉ 1/9 lần so với mức trung bình của các nước OECD.
(20) Trình độ thạc sĩ chỉ đạt hơn 2%, trình độ tiến sĩ chỉ đạt xấp xỉ 0,3%.
(21) Tỷ lệ sinh viên “thô” (bao gồm cả sau đại học) trên giảng viên của nước ta là 25,6. Theo báo cáo “Education at a Glance 2022” của OECD: Tỷ lệ “quy chuẩn” sinh viên trên giảng viên trung bình ở các nước OECD là 15 (ở các trường công lập) và 17 (ở các trường tư thục). Còn theo số liệu thống kê của Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) (http://data.uis.unesco.org/) thì tỷ lệ “thô” sinh viên trên giảng viên trung bình ở các nước OECD là 14, trong khi tỷ lệ đó ở Xin-ga-po là 13 và Ma-lai-xi-a là 14. Về trình độ giảng viên, theo số liệu thống kê giáo dục đại học năm học 2020 - 2021 của Vương quốc Anh (https://www.hesa.ac.uk/data-and-analysis/staff/table-8), tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ là 54,4%. Từ năm 2010, Ma-lai-xi-a có tỷ lệ tiến sĩ trên tổng số giảng viên các trường đại học là 73%; Sri Lan-ka năm 2015 là 55%. (Báo cáo số 2092/BC-UBVHGD15, ngày 20/12/2023, của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội tổng thuật Hội thảo Giáo dục 2023 “Thể chế, chính sách nâng cao chất lượng giáo dục đại học”).
(22) Số lượng công trình công bố trên giảng viên ở mức khoảng 0,24 bài ISI/Scopus/giảng viên/năm, so với năng lực công bố trung bình trên thế giới (năm 2010) từ 1-8 bài báo ISI/Scopus/năm tùy theo nhóm ngành.
(Nguồn: TC Cộng sản)