Thứ Sáu, 27/9/2024
Nghiệp vụ công tác tuyên giáo
Thứ Tư, 6/10/2010 9:51'(GMT+7)

Góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng

Tượng đài Điện Biên Phủ

Tượng đài Điện Biên Phủ

Tình hình trên cho thấy sự cần thiết và ý nghĩa của việc Đảng ta đặt vấn đề “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức; xứng đáng với vai trò, vị trí, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới mà nhân dân tin tưởng giao phó.

Nhưng để đạt được yêu cầu trên, một vấn đề đặt ra là toàn Đảng phải làm gì và làm như thế nào là điều cần bàn luận. Vấn đề này, theo ý kiến cá nhân tôi, toàn Đảng cần thống nhất, quán triệt và thực hiện tốt các nội dung sau:

Thứ nhất: Trong cuộc đấu tranh về ý thức hệ tư tưởng, toàn Đảng phải thống nhất nhận thức: “Sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội là một tất yếu khách quan”.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đã chứng minh, không phải ngẫu nhiên lịch sử đã trao cho Đảng Cộng sản Việt Nam sứ mệnh lãnh đạo toàn xã hội. Ngược dòng lịch sử cho thấy, trước năm 1930, ở Việt Nam đã có nhiều đảng và phong trào ra đời, nhưng hoạt động của các đảng và phong trào này không vượt qua nổi thử thách của thời đại. Tuy các tổ chức này cũng như lãnh tụ của họ không thiếu đức tính dũng cảm, hy sinh quên mình, nhưng do hạn chế lịch sử về thế giới quan và hệ tư tưởng, nên rút cục bị thất bại.

Trước và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, theo chủ trương tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân để làm cách mạng và tiến hành kháng chiến của Đảng ta, các Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội đã được thành lập, đứng trong Mặt trận yêu nước, tự nguyện thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, khác với tình hình nhiều nước trên thế giới, một trong những đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã là người duy nhất lãnh đạo cách mạng. Đó không phải và cũng không thể là sự áp đặt chủ quan ý chí của Đảng đối với lịch sử. Trái lại, đó là sự giao phó của lịch sử thông qua sự sàng lọc nghiêm khắc của thời cuộc. Nhân dân ta, bằng sự thể nghiệm xương máu của mình, đã có dịp đối chiếu, so sánh các cương lĩnh, hoạt động của các đảng và các phong trào để rồi cuối cùng “chọn mặt gửi vàng”, thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chân chính và duy nhất của họ.

Trong quá trình đấu tranh, xây dựng, phát triển, Đảng đã tự vũ trang cho mình chủ nghĩa Mác-Lênin, học thuyết khoa học và cách mạng của thời đại, luôn biết dựa vào dân, tin tưởng nhân dân, do đó, Đảng ta đã phát huy được sức mạnh to lớn của toàn dân tộc để làm nên những chiến công vĩ đại: hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và từng bước tiến lên CNXH. Những vấn đề trên đã đủ để chúng ta khẳng định chắc chắn rằng: “Ngoài Đảng Cộng sản ra, không có một đảng của giai cấp hoặc tầng lớp nào đảm đương nổi vai trò lãnh đạo toàn xã hội đất nước ta”. Lịch sử trước đây đã như vậy, hiện nay và sau này sẽ vẫn là như vậy.

Thứ hai: Để xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, xứng đáng với niềm tin yêu, hy vọng của nhân dân, toàn Đảng phải không ngừng nâng cao và hoàn thiện sự lãnh đạo của mình.

Để đạt được điều này, trước hết, Đảng phải đề ra đường lối, chủ trương đúng, đáp ứng tốt nhất yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ để định hướng cho việc giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, đối ngoại của từng địa phương và cả đất nước. Ở đây, tầm nhìn xa trông rộng, khả năng nắm bắt đúng nhu cầu hiện tại của cuộc sống, những dự đoán có căn cứ khoa học sự vận động trong tương lai là phẩm chất hàng đầu mà tổ chức đảng, trước hết là các đồng chí cấp uỷ các cấp phải có.

Trong các thời kỳ kháng chiến trước đây cũng như thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, sở dĩ Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng thành công, giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác là nhờ có được những phẩm chất đó. Phía trước chúng ta, quy mô, tính chất phức tạp và chiều sâu của công cuộc xây dựng CNXH, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH mà Đảng ta đề ra càng đòi hỏi Đảng phải nâng cao hơn nữa phẩm chất của mình lên một tầm cao mới.

Công cuộc đổi mới của chúng ta đã đi qua gần một phần tư thế kỷ, song vẫn là sự nghiệp mới mẻ, do đó chỉ có thể tiếp tục làm, tiếp tục tìm tòi, sáng tạo. Điều quan trọng là các tổ chức đảng một mặt phải nghiên cứu nắm vững các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp vào điều kiện của từng ngành, từng địa phương, đơn vị, tổ chức chính trị- xã hội... Mặt khác, mỗi cán bộ, đảng viên trong các tổ chức đảng cần hết sức coi trọng việc thâm nhập thực tiễn, coi trọng kinh nghiệm của các địa phương, ngành, cơ sở. Điều đó không mâu thuẫn với nguyên tắc tập trung dân chủ, trái lại làm được như vậy lại chính là phát huy tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ, theo đúng yêu cầu: “Đảng huy động trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là các ngành khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học - kỹ thuật đóng góp cho sự nghiệp đổi mới” như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra.

Tất nhiên, để làm được vấn đề nêu trên, một lĩnh vực mà Đảng phải tập trung đầu tư công sức là đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, vì cán bộ luôn là “gốc của mọi công việc”. Mấy năm qua, công tác này đã có một số tiến bộ, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Trong công tác cán bộ, phải căn cứ vào việc đào tạo, bồi dưỡng và đặc biệt là khả năng, năng lực hoạt động cụ thể của cán bộ để bố trí sử dụng đi đôi với kiểm tra. Thực tiễn cho thấy, ở nơi nào đội ngũ cán bộ cơ sở vững vàng, nhất là cán bộ cốt cán thì ở đó phong trào phát triển nhiều mặt. Chính vì lẽ đó, thông qua cơ chế dân chủ và với tinh thần trách nhiệm cao, các tổ chức đảng phải lựa chọn cho được những người thật sự tiêu biểu về trí tuệ, năng lực và phẩm chất để giới thiệu cho Đảng.

Nâng cao vai trò và chất lượng của Đảng đối với việc lãnh đạo xã hội bao hàm một mặt quan trọng nữa là nâng cao năng lực và đổi mới phong cách lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng. Bởi quan hệ giữa Đảng với quần chúng bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và cách mạng nước ta. Nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta trong các thời kỳ cách mạng và trong kháng chiến trước đây chính là ở chỗ Đảng gắn bó máu thịt với dân, lãnh đạo và phát huy được tiềm năng to lớn của dân, quan tâm giải quyết thiết thân các lợi ích của quần chúng. Vai trò to lớn của quần chúng được thể hiện trong câu ca đặc sắc vang lên trong thời kỳ chống Mỹ và được Bác Hồ nhiều lần nhắc lại: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Hiện nay, trong quá trình đổi mới, Đảng càng cần phải quan tâm hơn tới mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Do đó, cán bộ, đảng viên dù là ai, ở cấp, ngành, đơn vị nào cũng đều phải thấm nhuần và thực hiện tốt phương châm “Trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, tất cả vì nhân dân”. Đồng thời, khi Đảng ta là đảng cầm quyền thì Đảng phải luôn chăm lo đến việc chỉnh đốn, ngăn chặn cho được căn bệnh “quan của dân”, hoặc bệnh “xa dân”.

Cũng cần nói thêm, sức mạnh, uy tín, năng lực và chất lượng lãnh đạo của Đảng phụ thuộc rất nhiều ở việc phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bao gồm dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới xã hội ta, một phương tiện có hiệu quả để xây dựng Đảng. Dân chủ về thực chất là bảo đảm quyền làm chủ trên thực tế của người dân trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và tinh thần, phát huy tính tích cực, sáng tạo của họ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Thời gian tới, theo tôi, cần nghiên cứu triển khai một số phương hướng chủ yếu sau:

- Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và xây dựng mới các thiết chế và cơ chế dân chủ (bao gồm việc thiết lập các tổ chức cần thiết, xây dựng pháp luật, chính sách, quy định, thể lệ.v.v.), nhằm xác định quyền lợi và nghĩa vụ công dân trên các lĩnh vực hoạt động xã hội khác nhau.

- Bảo đảm thực thi đúng các quyền và nghĩa vụ công dân đã được ban hành, nghiêm trị những hành vi xâm phạm quyền và nghĩa vụ công dân theo đúng pháp luật Nhà nước.

- Củng cố tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống thanh tra, kiểm tra Đảng và Nhà nước; của toà án, viện kiểm sát và công an nhân dân.

- Giáo dục tuyên truyền sâu rộng Hiến pháp và pháp luật trong các nhà trường và trong xã hội.

Thứ ba: Phát huy truyền thống đoàn kết quý báu của Đảng ta.

Đây là nhân tố làm nên sức mạnh của Đảng hơn 80 năm qua. Trong Di chúc, Bác Hồ đã căn dặn chúng ta: “Các đồng chí từ Trung ương đến chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, và chính Người là hiện thân mẫu mực của sự đoàn kết nội bộ Đảng, đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Trong những năm qua, Đảng ta đã phát huy tốt truyền thống đoàn kết. Hiện nay và những năm tiếp theo, mỗi tổ chức đảng và từng đảng viên không thể và không bao giờ được chủ quan, tự mãn để dẫn tới sự lơ là, sao nhãng việc củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Để điều đó được phát huy giá trị, theo ý kiến tôi, trong thời gian tới, toàn Đảng cần quan tâm tới các nhân tố tạo sự đoàn kết, thống nhất chủ yếu sau:

- Phải luôn chú trọng khâu xây dựng và ban hành các chủ trương, chính sách, nghị quyết, quyết định đúng, trúng và phù hợp lòng dân.

- Thực hiện nghiêm túc hơn các nguyên tắc sinh hoạt đảng “tập trung dân chủ”, “tự phê bình và phê bình”. Bác Hồ đã căn dặn chúng ta: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Trong phê bình phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.

- Phải ra sức chống chủ nghĩa cá nhân, vì chủ nghĩa cá nhân là “bệnh mẹ”, là “giặc nội xâm”, nó đẻ ra mọi thứ bệnh con khác.

Thứ tư: Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ việc thể hiện trên thực tế tính giai cấp, tính tiên phong của đảng viên.

Bác Hồ nói: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”. Sự nghiệp đổi mới đang đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tự đổi mới không ngừng. Muốn vậy, mọi cán bộ, đảng viên phải tăng cường nghiên cứu nắm vững lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Chủ yếu là tự học, vừa học, vừa kết hợp vận dụng trong công tác thực tế. Đó là cách tốt nhất khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều.

Đảng cần có quy định rõ và cụ thể hơn về việc “Đảng viên nói và làm theo nghị quyết, quyết định và Điều lệ Đảng; giữa lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau”. Đó là trong mọi công việc, mỗi đảng viên đều phải thật sự xuất phát từ quan điểm “lấy dân làm gốc”, gần gũi, gắn bó với quần chúng, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng và quan tâm giải quyết những lợi ích thiết thân của họ, có tác dụng hướng dẫn, nêu gương trước quần chúng.
Từng đảng viên phải luôn tự rèn luyện mình, thường xuyên tiến hành tự phê bình. Tổ chức đảng có những hình thức lấy ý kiến của quần chúng góp ý với cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên là lãnh đạo. Có như vậy, uy tín, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng, sức chiến đấu của cán bộ, đảng viên mới được nâng lên ./.

Nguyễn Vân Chương (Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Điện Biên)
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất