HẬU PHƯƠNG LIÊN KHU VIỆT BẮC TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Liên
khu Việt Bắc được hình thành từ tháng 11/1949 trên cơ sở thống nhất
Liên khu 1 và Liên khu 10. Từ năm 1949 đến năm 1956, địa bàn Liên khu
Việt Bắc có nhiều sự thay đổi về hành chính. Thời gian đầu, Liên khu
Việt Bắc bao gồm 17 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Yên, Hải Ninh, Phúc Yên,
Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu; 1 đặc khu Hòn Gai
và châu Mai Đà (tỉnh Hòa Bình). Năm 1950, tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên hợp
nhất thành Vĩnh Phúc. Ngày 17/7/1952, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết
định “thành lập Khu Tây Bắc gồm bốn tỉnh: Yên Bái, Lào Kay, Lai Châu và
Sơn La. Bốn tỉnh đó từ nay sẽ đứng ngoài Liên khu Việt Bắc”(1).
Đến ngày 12-6-1956, Bộ Chính trị quyết định thành lập Khu tự trị Việt
Bắc. Ngày 19/8/1956, Khu tự trị Việt Bắc chính thức hoạt động và Liên
khu Việt Bắc ngừng hoạt động.
Liên
khu Việt Bắc là địa bàn có vị trí chiến lược: có đường biên giới Việt
Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Lào; được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh lựa chọn xây dựng căn cứ địa - nơi ở và làm việc của các cơ
quan trung ương; là địa bàn rộng, có điều kiện thuận lợi về tự nhiên để
sản xuất nông - lâm nghiệp cũng như che giấu, bảo vệ cán bộ, đấu tranh
với kẻ thù; là chiến trường chính của Bắc Bộ - nơi diễn ra nhiều chiến
dịch lớn có ý nghĩa quan trọng với cách mạng cả nước. Đời sống của đồng
bào các dân tộc nơi đây còn nhiều khó khăn, kẻ thù lại tập trung đánh
phá, song đồng bào luôn có truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên
cường. Với những đặc điểm đó, Liên khu Việt Bắc đã trở thành hậu phương
chiến lược của cách mạng cả nước, trong đó có Chiến dịch Điện Biên Phủ.
V.I.Lênin khẳng định: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách thật sự,
phải có một hậu phương được tổ chức vững chắc. Một quân đội giỏi nhất,
những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng, cũng đều sẽ lập
tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực
và huấn luyện một cách đầy đủ”(2). Quán triệt quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam,
Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức
được vị trí, vai trò của hậu phương đối với cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Để lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối chiến
tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh. Muốn
tiến hành kháng chiến lâu dài phải xây dựng, củng cố và phát triển hậu
phương vững chắc nhằm cung cấp nhân lực, vật lực cho cuộc kháng chiến.
Liên khu Việt Bắc không chỉ là địa bàn được Trung ương Đảng chọn làm căn
cứ địa cách mạng quan trọng, mà còn là hậu phương chiến lược của cách
mạng cả nước. Chính vì vậy, những đóng góp về nhân lực, vật lực của Liên
khu Việt Bắc cho mặt trận là rất to lớn.
Bước
sang năm 1953, thực dân Pháp lệ thuộc ngày càng sâu vào viện trợ quân
sự của Mỹ hòng tìm lối thoát trong danh dự. Tháng 5/1953, Đại tướng Nava
được cử sang Đông Dương làm Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy quân đội viễn
chinh Pháp. Đến tháng 7/1953, tướng Nava vạch ra kế hoạch chính trị,
quân sự mới có tên “Kế hoạch Navarre”, dự kiến trong vòng 18 tháng sẽ
“chuyển bại thành thắng”. Trong quá trình triển khai kế hoạch, Nava đã
từng bước xây dựng Điện Biên Phủ trở thành căn cứ quân sự “không thể
công phá”. Từ những động thái đó của thực dân Pháp, Trung ương Đảng chỉ
đạo phải tiếp tục mở những trận đánh lớn trên chiến trường. Đến ngày
6/12/1953, Bộ Chính trị họp nghe báo cáo của Tổng Quân ủy về phương án
tác chiến mùa xuân năm 1954 và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trung ương Đảng xác định: “Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn
nhất từ trước tới nay... Vì vậy, sự chuẩn bị có nhiều khó khăn cần ráo
riết tập trung lực lượng mới làm được...”(3), cũng như yêu
cầu cung cấp cho mặt trận không ngừng tăng lên. Trong quá trình chuẩn bị
cho Chiến dịch Điện Biện Phủ, riêng kế hoạch cung cấp vào tháng 5-1954,
Hội đồng cung cấp Trung ương giao cho Liên khu Việt Bắc phải bảo đảm
1.000 tấn gạo, 90 tấn thịt trâu, bò, 30 tấn thực phẩm khô(4).
Để
hoàn thành nhiệm vụ Trung ương giao phó cũng như thống nhất tư tưởng
hành động trong toàn Liên khu, ngày 8/12/1953, Ban Thường vụ Liên khu ủy
Việt Bắc ban hành Thông tri số 89-TT/LKVB, “Về công tác phục vụ tiền
tuyến”, trong đó nêu rõ tầm quan trọng, cấp thiết và những khó khăn của
công tác phục vụ tiền tuyến lúc này. Đến năm 1954, công tác chuẩn bị cho
Chiến dịch Điện Biện Phủ càng diễn ra khẩn trương, mau lẹ, yêu cầu cung
cấp cho mặt trận ngày càng lớn thì khó khăn ngày càng nhiều. Chính vì
vậy, tại Hội nghị Liên khu ủy Việt Bắc, họp từ ngày 17/1 đến ngày
31/1/1954, chỉ đạo: “Việc cung cấp cho tiền tuyến là một nhiệm vụ có
tính chất thường xuyên. Phải vượt qua tất cả những khó khăn để bảo đảm
hoàn thành việc cung cấp cho tiền tuyến đánh giặc”(5). Chủ
trương đó của Đảng bộ Liên khu triển khai đến các địa phương, được đồng
bào các dân tộc nhiệt tình hưởng ứng trong lao động, sản xuất, chiến
đấu.
Đứng
trước yêu cầu của cuộc kháng chiến và nhiệm vụ mà Trung ương giao phó,
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định: “Liên khu Việt Bắc là căn cứ địa của
kháng chiến thì yêu cầu cung cấp cho kháng chiến càng nhiều, lại càng
phải chú trọng đến bồi dưỡng sức dân”(6). Có dựa vào dân,
luôn bồi dưỡng lực lượng vật chất, tinh thần cho nhân dân mới bảo đảm
đời sống của nhân dân, huy động được sự đóng góp càng nhiều của nhân dân
cho mặt trận. Với nhận thức như vậy, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ
đạo tập trung phát triển kinh tế, coi công tác kinh tế - tài chính hết
sức quan trọng, trong đó nhấn mạnh, cần tăng cường phát triển sản xuất
nông nghiệp để sản xuất được nhiều lúa, ngô, khoai, sắn bên cạnh các
ngành khác.
Thực
hiện chủ trương bồi dưỡng sức dân của Trung ương Đảng “động viên lực
lượng của dân phải đi đôi với bồi dưỡng lực lượng của dân. Bồi dưỡng
dân nhiều hơn đòi hỏi dân thì càng kháng chiến, lực lượng của dân càng
dồi dào. Vì thế, mới kháng chiến trường kỳ cho đến toàn thắng được”(7).
Đảng bộ Liên khu chỉ đạo: “Năm nay phải kết hợp việc phát triển sản
xuất và thực hiện thăng bằng thu - chi với công tác phát động quần
chúng”(8). Đảng bộ Liên khu đã lãnh đạo thí điểm công tác
phát động quần chúng tại xã Hùng Sơn (Thái Nguyên), Đồng Xuân, Tân Trào,
Hiệp Hòa (Phú Thọ). Đến tháng 10/1953, căn cứ vào chỉ đạo của Trung
ương, Đảng bộ Liên Khu Việt Bắc chủ trương “phát động quần chúng đợt 3
sẽ làm 200 xã nhằm Thái Nguyên, Phú Thọ là chính”(9), từ đó
tiến hành bố trí, huấn luyện cán bộ, tổ chức lãnh đạo và thường xuyên
rút kinh nghiệm. Đảng bộ Liên khu nhấn mạnh: Công tác cải cách ruộng đất
thành công, sức sản sinh ở nông thôn mới được giải phóng, lực lượng của
nông dân được bồi dưỡng..., do đó sẽ đẩy mạnh mọi công tác kháng chiến
làm cho khu căn cứ địa sẽ trở nên bức thành kiên cố vững chắc hơn nữa
trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Chính vì vậy, công tác cải cách
ruộng đất được Đảng bộ Liên Khu xác định là nhiệm vụ chủ yếu ở vùng tự
do trong năm 1954. Ngày 7/3/1954, Ban Thường vụ Liên khu ủy Việt Bắc ban
hành Thông tri số 19-TT/LKVB, “Về việc thi hành kế hoạch phát động quần
chúng giảm tô đợt 4”, trong đó nhấn mạnh, các tỉnh ủy, đoàn ủy “phải
chỉ đạo công tác phát động quần chúng giảm tô cho được vững, nhanh, tốt
gọn như phương châm trung ương đã đề ra”(10).
Việc
thực hiện chủ trương đẩy mạnh sản xuất, giảm tô, giảm tức và chuẩn bị
tiến hành cải cách ruộng đất làm cho đồng bào các dân tộc Việt Bắc phấn
khởi, hăng hái tăng gia sản xuất và tham gia kháng chiến. Các phong
trào thi đua sản xuất diễn ra sôi nổi, bà con tích cực đào mương, phai,
ao, chuôm để chống hạn, tiến hành cấy thâm canh, bón phân, làm cỏ, vun
xới, ủ rơm rạ trên mặt luống, thả bèo hoa dâu vào ruộng lúa để chống
hạn... Nhằm bảo đảm vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa huy động dân công
đi phục vụ chiến dịch, sửa chữa cầu đường, bà con đã tiến hành đổi công,
hỗ trợ nhau trong sản xuất. Các nghề phụ gia đình cũng được phát triển,
mậu dịch được chấn chỉnh nhằm thúc đẩy sản xuất. Những tháng đầu năm
1954, khi công tác phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ được đẩy lên mức cao
nhất, hậu phương càng nỗ lực, cố gắng giải quyết những khó khăn về lao
động, phương tiện... Đảng bộ Liên khu chỉ đạo để động viên hậu phương,
tiền tuyến cùng thi đua lao động, sản xuất, giết giặc lập công, cần
“thường xuyên báo cáo tin chiến thắng cho nhân dân hậu phương đi đôi với
việc đem thành tích của hậu phương báo cáo cho anh em bộ đội ngoài tiền
tuyến”(11).
Để
xây dựng hậu phương vững mạnh, bên cạnh nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất,
phát triển kinh tế, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc còn tập trung chỉ đạo,
triển khai công tác bảo vệ Liên khu. Năm 1953 và 1954, với âm mưu kết
thúc chiến tranh dưới sự giúp sức của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp, một mặt
ra sức bình định vùng tạm chiếm, mặt khác tăng cường đánh phá, quấy rối
vùng tự do của ta nhằm làm giảm sút khả năng phục vụ tiền tuyến của hậu
phương, đẩy ta đến chỗ phải đánh nhau với chúng ở mọi địa bàn. Ở Liên
khu Việt Bắc, lợi dụng những nơi cơ sở của ta còn non yếu, cán bộ và bộ
đội ít hoạt động, địch tung biệt kích, đặc vụ, việt gian vào mua chuộc,
lừa phỉnh, uy hiếp nhân dân để tổ chức cơ sở thổ phỉ phản động chống lại
các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, nhất là thuế nông
nghiệp và dân công. Bên cạnh biện pháp vận động nhân dân tăng gia sản
xuất, phát triển kinh tế, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc tích cực chỉ đạo, tổ
chức công tác chống địch cướp phá mùa màng, tiễu trừ thổ phỉ và phản
động nhằm bảo vệ hậu phương trước sự phá hoại của kẻ thù.
Ngày
18-12-1953, Ban Thường Vụ Liên khu ủy Việt Bắc ban hành Chỉ thị số
52-CT/LKVB, “Gửi các tỉnh ủy Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng và Bắc Kạn
về đẩy mạnh hoạt động tiễu phỉ ở khu vực giáp giới bốn tỉnh”, trong đó
nhấn mạnh: “Muốn tiêu diệt được thổ phỉ, ta phải dùng lực lượng quân sự
trấn áp hoạt động võ trang của chúng, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục, lôi kéo những phần tử lầm đường theo phỉ, tranh thủ
quần chúng, khiến cho nhân dân không sợ phỉ, căm ghét phỉ và mạnh bạo
hợp tác với ta tiêu diệt những tên đầu sỏ lúc đó đã bị cô lập”(12),
đồng thời thành lập ban chỉ đạo công tác tiễu phỉ. Ban chỉ đạo đã khẩn
trương tiến hành đợt 3 cuộc vận động tiễu phỉ ở Bản Mạn, xã Bằng Thành
và khu vực xung quanh. Đầu năm 1954, đoàn mở rộng phạm vi hoạt động ra
các xã Nghiên Loan, Xuân La..., phối hợp với chính quyền, lực lượng vũ
trang các tỉnh mở nhiều đợt tấn công, truy quét vào hang ổ phỉ. Thắng
lợi của công tác tiễu phỉ đã nâng cao tinh thần giác ngộ của nhân dân,
tình hình an ninh chính trị ở hậu phương từng bước trở lại ổn định, khối
đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Nhân dân thêm tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng và Đảng bộ Liên khu, yên tâm tăng gia sản xuất và
phấn khởi, hăng hái tham gia công tác kháng chiến.
Với
tinh thần khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, một
“chiến dịch cầu đường” được triển khai trên quy mô lớn tại Liên khu Việt
Bắc. Các cấp chính quyền tích cực tuyên truyền, động viên, huy động
nhân dân cùng cán bộ, chiến sĩ cầu đường sửa chữa, bảo vệ các con đường
huyết mạch. Với tinh thần yêu nước, nhiều đoàn dân công bao gồm già,
trẻ, gái, trai từ các rẻo cao đổ về các tuyến đường số 1, số 3 không kể
ngày đêm làm nhiệm vụ sửa chữa, bảo đảm giao thông vận tải. Trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, nhân dân các địa phương có sáng kiến thành lập
các “Tổ bảo vệ”, các “Đội chủ lực sửa chữa” cầu đường. Dưới sự chỉ đạo,
tổ chức của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc và sự nỗ lực của nhân dân, diện
tích, năng suất lúa và hoa màu đã tăng lên, giao thông vận tải được bảo
đảm và giữ vững, công tác tiễu phỉ đạt nhiều kết quả..., có tác dụng to
lớn trong việc xây dựng, củng cố hậu phương, đồng bào các dân tộc yên
tâm, hồ hởi, nỗ lực chi viện ở mức cao nhất cho Chiến dịch Điện Biên
Phủ.
Trong
toàn bộ thời gian diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, Liên khu Việt Bắc
đã cung cấp: 4.680 tấn lương thực và 130.554 lượt dân công phục vụ chiến
dịch(13), với tổng 35.000 dân công(14). Riêng các
tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Lạng Sơn trong đợt 2 và 3 của chiến dịch còn
tiếp tục gửi ra mặt trận cho bộ đội 34.000 kg thịt lợn(15).
Tính riêng 6 tỉnh của Liên khu là Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh đã huy động và đưa ra mặt trận 4.680 tấn
gạo, 118 tấn thịt, 113 tấn vừng, đậu, lạc(16).
Học sinh nghe kể chuyện Điện Biên. (Ảnh: TTXVN).
MỘT SỐ BÀI HỌC ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
Thực
tiễn xây dựng hậu phương Liên khu Việt Bắc cũng như quá trình đóng góp
của Liên khu đối với Chiến dịch Điện Biên Phủ để lại những bài học quý
giá đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Một là, luôn tin tưởng vào nhân dân để phát huy truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường.
Liên
khu Việt Bắc là địa bàn rộng, có nhiều tỉnh miền núi, dân cư thưa thớt,
chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Đảng bộ Liên khu Việt
Bắc đã có những chủ trương sát hợp khơi dậy, phát huy truyền thống yêu
nước của đồng bào. Đồng bào các dân tộc ở Liên khu Việt Bắc quyết tâm
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, tham gia lao động, sản xuất, ổn định
cuộc sống và thực hiện nhiệm vụ nặng nề nhưng vẻ vang đóng góp cho mặt
trận, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược. Trong bối cảnh hiện nay, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Khơi
dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc”(17) là động lực to lớn để phát triển đất nước.
Hai là, xây dựng và bảo đảm giao thông vận tải thông suốt.
Liên
khu Việt Bắc là địa bàn có nhiều tuyến đường quan trọng nối các hậu
phương với Điện Biện Phủ và nước ta với các nước khác. Trong suốt quá
trình chuẩn bị và diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, mặc dù gặp nhiều khó
khăn, bị kẻ thù đánh phá ác liệt, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã sát sao
chỉ đạo, sát cánh cùng bộ đội và nhân dân bảo đảm thông suốt các tuyến
đường, cung cấp sức người, sức của cho mặt trận. Sự thất bại thảm hại
của thực dân Pháp trong Chiến dịch Điện Biên Phủ do nhiều nguyên nhân,
trong đó phải kể đến việc thực dân Pháp không thể bảo đảm được giao
thông vận tải phục vụ cho chiến trường.
Trong
bối cảnh hiện nay, giao thông vận tải càng trở nên quan trọng, được
Đảng xác định là một trong ba đột phá chiến lược để xây dựng đất nước
trong thời gian tới. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ với một số công trình hiện đại. Tập trung ưu tiên đầu tư, sớm đưa vào
sử dụng các công trình, dự án hạ tầng trọng điểm về giao thông đường
bộ, đường sắt, đường biển, đường không kết nối các vùng, khu vực, các
trung tâm kinh tế trong nước và quốc tế”(18), trong đó có
sự ưu tiên về phát triển kết cấu hạ tầng đối với các tỉnh
trung du và miền núi Bắc Bộ, theo tinh thần Nghị quyết số
11-NQ/TW của Bộ Chính trị về "Phương hướng phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi
Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Ba là, xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc.
Trong
suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhất là trong quá
trình chuẩn bị và diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phú, Liên khu Việt Bắc
luôn là trọng điểm bị kẻ thù đánh phá và bọn thổ phỉ phá hoại từ bên
trong. Để bảo đảm cung cấp khối lượng lớn sức người, sức của cho mặt
trận, trong quá trình chỉ đạo, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc luôn chú ý đến
nhiệm vụ phòng, chống kẻ thù phá hoại hậu phương, đẩy mạnh công tác
tiễu trừ thổ phỉ, góp phần bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân,
tăng cường khối đoàn kết, thống nhất trong toàn Liên khu.
Trong
giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục sử dụng nhiều
chiêu bài, thủ đoạn khác nhau để chống phá cách mạng nước ta. Do đó,
cần luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phòng, chống âm
mưu “diễn biến hòa bình”, gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Có kế sách
ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn
đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng
biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”(19).
Tròn
70 năm đã trôi qua, nhưng thắng lợi của Chiến dịch Điện Biện Phủ luôn
là thiên sử vàng chói lọi của dân tộc. Thắng lợi của Chiến dịch Điện
Biên Phủ là thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân, thắng lợi của
đường lối xây dựng hậu phương vững chắc, “tất cả cho tiền tuyến, tất
cả để chiến thắng”, để lại nhiều bài học quý giá đối với công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay./.
TS. NGUYỄN THỊ MAI
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ĐINH THỊ THU PHƯƠNG
Đại học Hùng Vương
___________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t.13, tr.210.
(2) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t.35, tr.497.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.14, tr.594.
(4) Liên khu ủy Việt Bắc: Báo cáo về việc thi hành nhiệm vụ bảo đảm nhu cầu cung cấp cho tiền phương và nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải, phông sổ 43, đơn vị bảo quản số 1041, Cục Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng.
(5) (10) (11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Liên khu ủy Việt Bắc giai đoạn 1946-1956, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2020, t.8, tr.197, 218, 312.
(6) (7) (8) (12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Liên khu ủy Việt Bắc giai đoạn 1946-1956, Sđd, t.7, tr.1, 549, 760-761.
(13) (16) Bộ Tư lệnh Quân khu I: Tổng
kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc
trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, H, 1991, t.3, tr.92, 189.
(14) (15) Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, H, 1990, t.1, tr.353, 354.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.324.
(18) (19) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.126-127, 156-157.
(Nguồn: TC Cộng sản)