Ngày 28/6/2014, Đại sứ Trung Quốc tại Liên minh châu Âu Dương Yến Di đã
có bài viết trên tờ New Europe về vụ “giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang
Shiyou-981)” với những lập luận sai sự thật. Ngày 17/7, cũng trên tờ New Europe, Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Bỉ,
kiêm nhiệm Đại công quốc Luxembourg và Ủy ban châu Âu Phạm Sanh Châu đã
có bài viết: "Hãy trả lại bình yên cho Biển Đông" phản bác lại những lập luận cố tình làm sai sự thật của Đại sứ Trung Quốc Dương Yến Di. Tạp chí trân trọng giới thiệu nội dung bài viết của Đại sứ Phạm Sanh Châu.
Ngày 28/6/2014, người đồng nghiệp của tôi, Đại sứ Trung Quốc tại Liên
minh châu Âu Dương Yến Di đã có bài viết trên tờ New Europe về vụ “giàn
khoan” ở biển Đông và về luật pháp quốc tế liên quan để giải quyết tranh
chấp.
Tôi tán thành cách tiếp cận dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế của Đại sứ
Dương, tuy nhiên cá nhân tôi muốn đưa ra một vài phản biện đối với những
lập luận chưa chính xác của Đại sứ Dương, và giải thích tại sao những
lập luận này không thể đứng vững khi xem xét kỹ lưỡng dưới góc độ của
luật pháp quốc tế.
Đại sứ Dương đã cố biện hộ cho hành động hạ đặt giàn khoan của Trung
Quốc bằng hai luận điểm: Trung Quốc có “chủ quyền không thể chối cãi”
đối với quần đảo “Tây Sa” và “vùng nước không có tranh chấp của quần đảo
Tây Sa.”
Với tất cả sự tôn trọng, tôi xin khẳng định cả hai lập luận trên của Đại sứ Dương đều sai sự thật.
Thứ nhất, theo quy định của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, việc
các cá nhân khai phá một vùng lãnh thổ là chưa đủ để hình thành quyền sở
hữu của một quốc gia đối với lãnh thổ đó.
Ngay cả việc phát hiện lãnh thổ trên danh nghĩa quốc gia cũng chỉ tạo ra
“danh nghĩa chủ quyền ban đầu” (inchoate title), muốn thiết lập chủ
quyền với vùng lãnh thổ này, chính quốc gia đó cần có những hành động
chiếm hữu, quản lý liên tục và hiệu quả.
Cái gọi là quần đảo Tây Sa thực chất là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
(tiếng Anh là Paracels) đã được Nhà nước Việt Nam quan tâm, nỗ lực xác
lập và thực thi chủ quyền ít nhất là từ thế kỷ 17. Điều này được ghi rõ
trong các tài liệu lịch sử chính thức của Việt Nam và của các quốc gia
khác.
Đại sứ Dương có thể tham khảo bộ sưu tập bản đồ trong cuốn Bản đồ Thế
giới (World Atlases) của nhà địa lý nổi tiếng người Bỉ Philippe
Vandermaelen, trong đó ấn bản năm 1827 đã thể hiện rất rõ Hoàng Sa thuộc
đế chế An Nam (Việt Nam) trong phần bản đồ về Nam Kỳ (Cochinchine).
Trái lại, phía Trung Quốc không đưa ra được bằng chứng nào chứng minh
việc Trung Quốc xác lập và thực thi chủ quyền đối với quần đảo này trong
suốt chiều dài lịch sử.
Không có sách lịch sử hay bản đồ chính thức nào của Trung Quốc ghi nhận
Hoàng Sa và cả Trường Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc cho đến
tận giữa thế kỷ XX.
Trong tất cả các tài liệu và bản đồ chính thức của Trung Quốc, điểm cực
Nam của lãnh thổ Trung Quốc chưa bao giờ vượt quá đảo Hải Nam. Điều này
cũng đã được ghi nhận trong ấn bản World Atlases của Philippe
Vandermaelen nói trên.
Ảnh chụp lại ấn bản World Atlas năm 1827 của Philippe Vandermaelen, phần Parties, la Cochinchine, trang 106
Chính lịch sử và văn hóa Trung Quốc đã chứng minh nước này chưa từng có ý định chiếm hữu lãnh thổ trên biển.
Trong hàng ngàn năm lịch sử, đối với người Trung Quốc, biển luôn gắn
liền với cướp biển và sự bất ổn. Vì thế, rất nhiều triều đại Trung Quốc,
đến tận đời nhà Minh và nhà Thanh, vẫn tiếp tục thi hành chính sách cấm
các hoạt động trên biển, được biết đến với tên gọi Chính sách Hải Cấm
(Haijin).
Chính sách này cấm tàu bè ra biển, buộc người phải di chuyển vào trong
lục địa 30-40 dặm, người nào dám cả gan vươn ra biển sẽ bị quy vào tội
mưu phản chống lại triều đình và sẽ bị xử tử.
Với thực tế đó, Trung Quốc khó có thể khẳng định rằng Hoàng Sa là một
phần thiết yếu của lãnh thổ nước này trong hơn 1000 năm qua, bởi theo
luật quốc tế, để có thể thiết lập danh nghĩa chủ quyền, các quốc gia cần
phải tiến hành hoạt động thực thi chủ quyền một cách “liên tục và hiệu
quả” đối với vùng lãnh thổ đó.
Bài viết của Đại sứ Dương có đề cập rằng trước năm 1974, Việt Nam chưa
bao giờ chất vấn về “chủ quyền của Trung Quốc” đối với Hoàng Sa, và các
tuyên bố chính thức của Việt Nam đều công nhận Hoàng Sa là một phần của
lãnh thổ Trung Quốc. Điều này là hoàn toàn vô căn cứ và là sự cố tình
hiểu sai lịch sử.
Tại Hội nghị San Francisco năm 1951, Trưởng đoàn Việt Nam, Thủ tướng
quốc gia Việt Nam Cộng hòa lúc đó Trần Văn Hữu đã tái khẳng định chủ
quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp phải sự
phản đối của bất kỳ quốc gia nào.
Trong khi đó, đề xuất của Liên Xô đề nghị công nhận chủ quyền của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với hai quần đảo này đã bị 46 trên 51
nước tham gia hội nghị bác bỏ.
Ba năm sau đó, Hiệp định Geneva 1954 về Đông Dương được ký kết đã ghi
nhận toàn bộ lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống, bao gồm cả
Hoàng Sa và Trường Sa, giao cho Việt Nam Cộng hòa quản lý.
Điều này được duy trì cho tới khi đất nước Việt Nam thống nhất vào năm
1975. Là một nước tích cực tham gia đóng góp vào nội dung của Hiệp định,
Trung Quốc ắt hẳn nắm rõ điều này. Vậy Trung Quốc sử dụng bằng chứng
nào để tuyên bố rằng Việt Nam Cộng hòa đã công nhận Trường Sa và Hoàng
Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc trước năm 1974?
Sự thực là Trung Quốc đã hai lần sử dụng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa
từ Việt Nam Cộng hòa vào các năm 1956 và 1974, giết hại nhiều người Việt
Nam trong trận chiến năm 1974.
Việc sử dụng vũ lực để thôn tính lãnh thổ đi ngược lại nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế được thiết lập kể từ khi kết thúc Chiến tranh Thế
giới lần thứ II. Hành động bất hợp pháp này không thể mang đến cho
Trung Quốc chủ quyền thực sự đối với quần đảo Hoàng Sa.
Chính Trung Quốc đã xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam bằng việc
đưa ra yêu sách chủ quyền bất hợp pháp đối với Hoàng Sa và chiếm đóng
quần đảo này bằng vũ lực.
Thứ hai, giàn khoan Hải Dương-981 của Trung Quốc được triển khai tại
vị trí chỉ cách bờ biển Việt Nam 130-150 hải lý, nằm sâu trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo Công ước Liên hợp quốc
về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
Là một quốc gia thành viên của UNCLOS 1982, Trung Quốc có nghĩa vụ
xác định vùng biển của mình phù hợp với các điều khoản của Công ước,
đồng thời tôn trọng quyền tương tự của các quốc gia ven biển khác.
Cho dù Trung Quốc xác định vùng biển của mình tính từ đường bờ biển của
đảo Hải Nam hay của bất kỳ thực thể nào của Hoàng Sa đi chăng nữa (chưa
bàn tới việc Trung Quốc chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa) thì vùng
nước nơi giàn khoan được hạ đặt cũng không thể coi là “vùng nước không
có tranh chấp” của Trung Quốc.
Thứ ba, Đại sứ Dương đã sai khi cáo buộc Việt Nam vi phạm luật pháp quốc
tế và gây tổn hại đến an toàn, tự do hàng hải trong khu vực Trung Quốc
hạ đặt giàn khoan.
Chính Trung Quốc đã hạ đặt giàn khoan thăm dò dầu khí và triển khai lực
lượng bảo vệ giàn khoan gồm cả tàu quân sự như tàu hộ vệ tên lửa, tàu
tuần tiễu tấn công nhanh, tàu săn ngầm, tàu đổ bộ và nhiều máy bay chiến
đấu. Hành động này đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía Việt Nam
cũng như sự quan ngại từ các nước trên thế giới.
Các đoạn video công khai cho thấy các tàu cỡ lớn của Trung Quốc đã cố ý
đâm va, phun vòi rồng vào các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam nhỏ
hơn rất nhiều lần.
Đặc biệt, ngày 26/5/2014, tàu Trung Quốc đã chủ động bám đuổi, đâm va
cho đến khi lật úp tàu cá ĐNa-90152-TS của Việt Nam đang hoạt động bình
thường trong vùng biển của Việt Nam, thậm chí các lực lượng Trung Quốc
còn có hành động ngăn cản các tàu của Việt Nam tham gia cứu hộ, cứu nạn
10 ngư dân của tàu cá ĐNa-90152-TS.
Tàu cá ĐNa 90152 TS được trục vớt nổi lên mặt nước từ tư thế chìm thẳng đứng. (Ảnh: TTXVN)
Thực tế này hoàn toàn trái ngược với tuyên bố của Đại sứ Dương rằng
Trung Quốc không ức hiếp các nước nhỏ, đồng thời cũng đã chứng minh rõ
ràng rằng Trung Quốc mới chính là nước gây hấn, xâm hại an toàn, tự do
hàng hải, vi phạm UNCLOS 1982 và Công ước về phòng chống đâm va trên
biển năm 1972 (COLREGs).
Hành vi cố tình phá hủy các thiết bị định vị và liên lạc trên tàu cá
Việt Nam, gây thương tích cho các kiểm ngư viên Việt Nam đã cấu thành
hành vi tội ác có thể bị xử lý theo Công ước 1988 về trấn áp các hành vi
bất hợp pháp xâm phạm an toàn hành trình hàng hải.
Việc Trung Quốc buộc tội ngược rằng Việt Nam đã đâm các tàu Trung Quốc
tổng cộng 1.547 lần không hề được chứng minh bằng bất cứ bằng chứng
thuyết phục nào.
Đại sứ Dương nói rằng Việt Nam đã không có phản hồi đối với hơn 30 cuộc trao đổi giữa hai nước.
Nhưng tuyên bố này đã che giấu một thực tế quan trọng. Đó là trong
các cuộc trao đổi này, vấn đề duy nhất không được phản hồi chính là yêu
cầu của Việt Nam buộc Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của
Việt Nam với mục đích tạo ra môi trường thuận lợi để hai nước trao đổi
giải quyết vấn đề.
Chính thái độ trong trao đổi và những hành động thực địa trên biển của
Trung Quốc đã không giúp hạ nhiệt căng thẳng và cho thấy rõ ràng Trung
Quốc thiếu thiện chí trong việc giải quyết tranh chấp một cách hòa bình.
Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của Ngài Arif Havas Oegrosenno, Đại sứ
Indonesia tại Bỉ, Luxembourg và EU, kiêm Chủ tịch cuộc họp lần thứ 20
giữa các quốc gia thành viên UNCLOS 1982, trong bài bình luận gần đây
đăng trên RSIS đã chỉ ra rằng Trung Quốc với tư cách là thành viên không
thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nên có trách nhiệm đạo
lý, chính trị và pháp lý để duy trì hòa bình và ổn định thế giới.
Tôi cũng hết sức hoan nghênh tuyên bố của Đại sứ Dương rằng Trung Quốc
sẽ tuân thủ nguyên tắc tìm kiếm các biện pháp hòa bình đối với mọi tranh
chấp thông qua tham vấn, đàm phán với các bên trên cơ sở bình đẳng, và
rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục nỗ lực “hạ nhiệt căng thẳng với Việt Nam”
đồng thời “củng cố quan hệ song phương.”
Đây là hy vọng về thiện chí và trách nhiệm của Trung Quốc đối với hòa
bình và ổn định ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng như trên thế giới.
Để chứng minh cho thế giới thấy Trung Quốc có thiện chí muốn “trả lại
bình yên” ở Biển Đông và để minh chứng cho việc làm của Trung Quốc luôn
đi đôi với lời nói, Trung Quốc cần chấm dứt ngay các hành động xâm phạm
chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước láng giềng,
triệt để tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982.
Trung Quốc cần không bao giờ tái diễn việc hạ đặt giàn khoan và đưa lực
lượng hộ tống vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam./.
(Vietnam+)