Ông đánh giá như thế nào về chất
lượng trong cơ sở GDNN hiện nay? Đâu là nguyên nhân cần dự thảo Quy định
xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng trong cơ sở GDNN?
Ông Phạm Vũ Quốc Bình:
Thực tế kết quả kiểm định chất lượng GDNN/dạy nghề giai đoạn 2008-2015
cho thấy, đa số hoạt động của các cơ sở dạy nghề được kiểm định tuân thủ
cơ bản các quy định của Nhà nước.
Mặc dù các trường được lựa chọn ưu tiên
tập trung đầu tư thành chất lượng cao là các trường đã đạt chuẩn kiểm
định chất lượng, nhưng vẫn còn 10-15% các yếu tố bảo đảm chất lượng chưa
được thực hiện, hoặc chưa đạt yêu cầu. Việc xây dựng hệ thống bảo đảm
chất lượng đối với các hoạt động của cơ sở GDNN còn nhiều bất cập, các
hoạt động còn mang tính đơn lẻ, rời rạc và hiệu quả không cao.
Do đó, cùng với việc ưu tiên tập trung
đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đổi mới chương trình
đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, giảng viên…
thì một giải pháp không kém phần quan trọng và có tính đột phá là phải
cải tiến về quản trị nhà trường, trong đó đề cao đến vấn đề nâng cao
chất lượng đào tạo một cách tổng thể và bền vững.
Bộ LĐTB&XH xây dựng dự thảo Thông tư
nói trên là nhằm mục đích trên. Việc xây dựng hệ thống bảo đảm chất
lượng trong nhà trường cũng phù hợp với các quy định của Luật GDNN, Nghị
định số 48/NĐ-CP ngày 15/5/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật GDNN. Theo đó, tại Khoản 14, Điều 4 nêu “Cơ quan quản lý
Nhà nước về GDNN ở Trung ương quy định xây dựng hệ thống bảo đảm chất
lượng trong cơ sở GDNN”.
Đồng thời, việc xây dựng hệ thống bảo
đảm chất lượng trong nhà trường góp phần đổi mới công tác quản lý GDNN,
bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của
nhà trường. Tôi nghĩ rằng, coi trọng quản lý chất lượng cũng là một
trong những giải pháp nhằm đổi mới GDNN.
Những điểm nổi bật, đáng chú ý của dự thảo Thông tư là gì, thưa ông?
Ông Phạm Vũ Quốc Bình:
Như đã nói, chúng đang xây dựng dự thảo Thông tư và trước mắt là hướng
dẫn các trường cao đẳng, trường trung cấp chuẩn bị các điều kiện để xây
dựng hệ thống bảo đảm chất lượng trong nhà trường.
Theo đó, định hướng xây dựng hệ thống
gồm: Hệ thống các chính sách, quy trình, công cụ đối với tất cả lĩnh
vực, nội dung quản lý của trường; hệ thống thông tin nội bộ, nhân sự và
cơ chế giám sát, đánh giá. Thông qua đó trường duy trì, cải tiến và nâng
cao chất lượng GDNN.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh nguyên tắc, yêu
cầu khi xây dự hệ thống: Thứ nhất là tuân thủ các quy định pháp luật
hiện hành, phù hợp với mục tiêu đào tạo của trường. Thứ hai, thể hiện
được tầm nhìn, sứ mạng, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của
trường trong từng giai đoạn. Thứ ba, nhấn mạnh vai trò của nhà quản lý,
gắn kết với quyền tự chủ, trách nhiệm giải trình của trường và lấy người
học làm trung tâm.
Thứ tư, huy động sự tham gia của tất cả
cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên, người học. Thứ năm là tiếp cận theo
quá trình, gắn kết với hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất
lượng GDNN. Cuối cùng là phải phù hợp với thực tiễn của trường, dễ vận
hành, thuận tiện trong việc kiểm tra, giám sát, đánh giá và cải tiến.
|
(Ảnh minh họa)
|
Để xây dựng hệ thống, chúng tôi sẽ thực hiện công tác chuẩn bị, gồm:
Hoàn thiện tổ chức, nhân sự chất lượng và các điều kiện có liên quan
khác. Tiếp đến là xây dựng và kiểm soát hệ thống tài liệu. Sau khi thiết
lập hệ thống thông tin bảo đảm chất lượng, hệ thống bảo đảm chất lượng
trong trường sẽ được ban hành và áp dụng.
Bên cạnh đó, dự thảo nêu rõ, hệ thống
bảo đảm chất lượng được công bố công khai để cán bộ, nhà giáo, nhân viên
và các đối tượng khác có liên quan biết và triển khai thực hiện. Hằng
năm, trường xây dựng và thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các quy định về xây dựng, vận hành hệ thống bảo đảm chất lượng.
Việc kiểm tra, giám sát được thực hiện định kỳ và đột xuất, bảo đảm tính
công khai, minh bạch và hiệu quả.
Theo ông, khi được ban hành, những
quy định xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng trong cơ sở GDNN sẽ mang
lại những tác động ra sao?
Ông Phạm Vũ Quốc Bình:
Luật GDNN đã nêu rõ “Cơ sở GDNN bảo đảm chất lượng theo quy định”. Để
đạt được yêu cầu này, cơ sở phải thực hiện các giải pháp quản lý chất
lượng cụ thể, trong đó cần thiết phải xây dựng hệ thống bảo đảm chất
lượng bên trong cơ sở.
Những quy định trong xây dựng hệ thống
trong dự thảo Thông tư là quy định khung cơ bản để các trường hình thành
hệ thống cho phù hợp điều kiện cụ thể của từng trường. Bảo đảm nguyên
tắc tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hoàn thiện cơ chế, chính
sách, quy trình công cụ quản lý nhằm đổi mới quản trị nhà trường theo
hướng công khai, minh bạch và hiệu quả. Xây dựng văn hóa chất lượng cũng
như phát huy tinh thần trách nhiệm của mọi thành viên trong nhà trường
tham gia quản lý chất lượng.
Việc hình thành “văn hóa chất lượng”
trong mỗi tổ chức cần phải trải qua một quá trình từ thay đổi về nhận
thức cho đến việc xây dựng các chính sách, thủ tục… và hiện thực hóa các
chính sách đó thông qua các hoạt động cụ thể nhằm tác động đến chất
lượng, đáp ứng được mục tiêu của tổ chức.
Trong cơ sở GDNN cũng vậy, cần có tiến
trình hình thành văn hóa chất lượng ngay trong các cơ sở. Vì vậy, tôi
cho rằng quy định xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng là việc làm cần
thiết để cơ sở hình thành hệ thống bên trong nhà trường trên cơ sở thực
hiện các quy định của pháp luật về GDNN, cụ thể hóa hoạt động của nhà
trường để đạt tiêu chuẩn chất lượng GDNN.
Do đó, quy định xây dựng hệ thống bảo
đảm chất lượng sẽ tác động trực tiếp để nhà trường hiện thực hóa các quy
định của Nhà nước, hướng tới tiêu chuẩn chất lượng GDNN theo quy định,
không ngừng cải tiến chất lượng và xây dựng văn hóa chất lượng của
trường, bảo đảm công khai, minh bạch./.
Ngô Hạnh (VGP)