Năm
là, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát trên toàn cầu, đối
ngoại, ngoại giao đã phát huy vai trò tiên phong, nhanh nhạy trong việc
kết nối, triển khai “ngoại giao vắcxin” hiệu quả, củng cố niềm tin, sự
đồng thuận của nhân dân trong nước, đồng bào ta trên khắp thế giới đối
với sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước.
Thông điệp ngoại giao về tinh thần đoàn kết, nhân văn của dân tộc Việt
Nam “không để ai bị bỏ lại phía sau” đã tạo được ấn tượng tốt đẹp với
cộng đồng quốc tế. Chính sách “ngoại giao vắcxin” được Nhà nước triển
khai quyết liệt, với sự nỗ lực, cố gắng của các cán bộ làm công tác đối
ngoại, ngoại giao đã đem lại hiệu quả thiết thực, tất cả vì mục tiêu cao
nhất là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân. Nhờ đó, chúng ta đã
nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ chân thành, tận tình của bạn bè quốc tế và
sớm vượt qua đại dịch.
Trong
khó khăn, thách thức, công tác đối ngoại, ngoại giao Việt Nam đã góp
phần truyền tải thông điệp về một quốc gia thân thiện, sẵn sàng hợp tác,
giúp đỡ và sẻ chia với cộng đồng quốc tế. Việt Nam luôn luôn lấy con
người làm trung tâm, luôn sẵn lòng hỗ trợ bất cứ ai, dù mang quốc tịch
nào.
Những
cố gắng, kết quả nổi bật nói trên của đối ngoại, ngoại giao đã góp phần
rất quan trọng vào thành tựu chung to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất
nước ta sau gần 40 năm đổi mới, nhờ đó vị thế và uy tín của Việt Nam
ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Mặc
dù đạt được nhiều thành quả to lớn, song chúng ta cũng cần nhìn thẳng
các mặt còn hạn chế để khắc phục, tiếp tục phấn đấu và hoàn thiện mình
để đạt được những thành tựu to lớn hơn.
Một là,
công tác đối ngoại, ngoại giao có lúc còn bị động, chưa kịp thời trong
phát hiện và xử lý các biến động mới ở khu vực và quốc tế có tác động
đến Việt Nam. Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, dự báo tình hình
tuy đã có nhiều tiến bộ, song có lúc còn thiếu tính chủ động, thiếu sự
phối hợp liên thông, đồng bộ giữa các cơ quan tham mưu chủ chốt.
Hai là,
quan hệ với một số đối tác, kể cả đối tác chiến lược, toàn diện chưa
sâu sắc, còn “điểm nghẽn” cản trở việc phát huy tiềm năng hợp tác. Hiệu
quả hội nhập quốc tế vẫn chưa phản ánh đầy đủ tiềm năng, chưa tận dụng
được hết các lợi ích của hội nhập. Nhận thức và năng lực hội nhập chưa
đồng đều giữa các ban, bộ, ngành, các địa phương và người dân. Việc
triển khai thực hiện các thỏa thuận quốc tế mà nước ta đã tham gia còn
chậm do thiếu sự đôn đốc sát sao hoặc do chậm được cụ thể hóa. Công tác
đào tạo cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế còn chưa ngang tầm với
những yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Ba là,
chúng ta còn chưa thật sự tự tin thể hiện xứng tầm với thế và lực mới
của đất nước, chưa thực sự mang tâm thế mới của Việt Nam trong ứng xử
đối ngoại và xử lý các mối quan hệ song phương cũng như đa phương trước
những điều chỉnh nhanh chóng về chiến lược và quan hệ của các nước lớn.
Chưa phát huy đầy đủ tinh thần quyết liệt chủ động tiến công trong những
vấn đề liên quan đến lợi ích chiến lược, chưa có suy nghĩ và hành động
vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và quốc tế.
Bốn là,
công tác đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ làm công tác đối ngoại có
lúc, có trường hợp còn chưa hiệu quả và chưa hợp lý. Cá biệt có cán bộ
thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về đạo đức, lối sống, thậm chí vi
phạm pháp luật, làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành, suy giảm niềm tin
của nhân dân.
Năm là,
công tác thông tin đối ngoại chưa thực sự sáng tạo, hiệu quả để thích
ứng với thời đại, có lúc còn để một số đối tác hiểu lầm, nghi ngại ta,
hiểu chưa đầy đủ, chưa được thông tin cập nhật thường xuyên về chủ
trương, đường lối của Đảng, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự
nghiệp đổi mới của Việt Nam. Ở trong nước, việc thông tin cho nhân dân
về chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta chưa đầy đủ
để tạo sự đồng thuận, ủng hộ chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng
và Nhà nước.
Từ
thực tiễn thành công và hạn chế của công tác đối ngoại, ngoại giao thời
gian qua, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Thứ
nhất, bài học bao trùm và bất biến là luôn luôn bảo đảm sự lãnh đạo
trực tiếp, toàn diện của Đảng, quản lý tập trung của Nhà nước đối với
công tác đối ngoại, ngoại giao.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta luôn luôn kiên định đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc
gia - dân tộc; huy động, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc để lãnh đạo công tác đối ngoại của đất nước phù hợp với tình
hình thế giới trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, bổ sung các
quan điểm, chủ trương, biện pháp lớn về đối ngoại, ngoại giao.
Thứ
hai, luôn luôn kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, “dĩ bất
biến, ứng vạn biến”; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ
sở luật pháp quốc tế. Nguyên tắc
bất biến của chúng ta là bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi
ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; còn
sách lược mềm dẻo, khôn khéo, song rất quyết liệt; linh hoạt, đổi mới,
sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên cường; “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm
buộc chặt”, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”.
Thứ
ba, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại; xử lý hài
hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và nghĩa vụ, trách nhiệm
quốc tế. Đối ngoại, ngoại giao
Việt Nam luôn phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn
với tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác quốc tế, trong đó sức mạnh dân tộc
thể hiện ở sức mạnh tổng hợp cả về vật chất lẫn tinh thần.
Thứ tư, đối ngoại, ngoại giao là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Do
vậy, phải khơi dậy niềm tự hào dân tộc và ý chí vươn lên phát triển đất
nước, củng cố sự đoàn kết trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, sự
tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị để xây dựng nền ngoại giao
toàn diện, hiện đại. Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ khát vọng hùng
cường của đất nước trong giai đoạn phát triển mới, như Chủ tịch Hồ Chí
Minh hằng mong ước: đưa dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang”,
“sánh vai với các cường quốc năm châu”. Cùng với quá trình hội nhập,
hoạt động đối ngoại cũng ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Tình
hình đó đòi hỏi sự gắn kết và phối hợp nhịp nhàng giữa các ban, bộ,
ngành, các cấp; các tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, các
đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế; Trung ương và địa phương;
ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, ngoại
giao quốc phòng, an ninh; giữa quan hệ song phương với hoạt động tại các
diễn đàn đa phương với trọng tâm, trọng điểm rõ ràng, nhất quán về đối
tác cũng như về địa bàn, diễn đàn và lĩnh vực.
Thứ
năm, chú trọng xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả
về trình độ, năng lực, nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện đạo đức,
lối sống. Cán bộ đối ngoại, ngoại
giao phải vững vàng về chính trị, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của
Đảng, đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc, của nhân dân lên trên hết,
trước hết; không bị cám dỗ của lợi ích vật chất, luôn luôn tỉnh táo,
cảnh giác trước sự tác động, lôi kéo của các thế lực thù địch, chủ động
phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
THỜI ĐẠI NGÀY NAY VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI, NGOẠI GIAO
Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “Nước ta là một bộ phận của
thế giới, mọi việc trong thế giới đều có quan hệ với nước ta, việc gì
trong nước ta cũng quan hệ với thế giới”(21). Việt Nam ngày
nay đã là một quốc gia chủ động, tích cực hội nhập toàn diện, sâu rộng
với thế giới. Do đó, việc hiểu đúng, đủ, toàn diện tình hình thế giới và
vị trí của Việt Nam trong thế giới là hết sức cần thiết nhằm nhận rõ
những cơ hội, thách thức, trên cơ sở đó triển khai hiệu quả đường lối
đối ngoại của đất nước.
Việc
đánh giá đúng các xu hướng, dòng chảy của thời đại luôn luôn là một câu
hỏi lớn, thường trực cho công tác đối ngoại. Trong thời đại ngày nay,
hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, dù nguy cơ chiến
tranh và xung đột luôn luôn tiềm ẩn và diễn biến phức tạp. Thời đại ngày
nay cũng là thời đại của toàn cầu hóa và liên kết, của chủ nghĩa đa
phương và luật pháp quốc tế, với nhiều khó khăn, thách thức; trong đó,
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh. Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại, có mặt gay gắt
hơn. Những đặc điểm thời đại đó, với những cơ hội và thách thức đan xen,
là tiền đề để Việt Nam tiếp tục triển khai thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế
toàn diện, sâu rộng.
Trong
bối cảnh đó, với cách nhìn biện chứng, khoa học, chúng ta nhìn nhận và
tin tưởng rằng hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là khát vọng lớn của
nhân loại, là xu thế và mục tiêu hướng tới của đại bộ phận các dân tộc
trên thế giới(22). Nhân loại tiến bộ sẽ tiếp tục đấu tranh
mạnh mẽ cho bình đẳng dân tộc, dân chủ xã hội và phát triển con người.
Đa số các quốc gia trên thế giới sẽ tiếp tục bảo vệ lợi ích quốc gia
chính đáng của mình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương
Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và các chuẩn mực quốc tế đã được thừa
nhận rộng rãi. Phát triển bền vững, hài hoà với bảo vệ môi trường, hướng
tới phục vụ quyền lợi lâu dài của đại đa số người dân, không để ai bị
bỏ lại phía sau, thượng tôn pháp luật đang trở thành các giá trị chung
của cộng đồng quốc tế.
Việt
Nam là một quốc gia đang phát triển mạnh mẽ, có vị trí địa chiến lược
quan trọng trong những chuyển dịch hiện nay của thời đại. Trong thế giới
biến động và khó lường, thách thức luôn luôn đan xen với cơ hội, rủi ro
luôn luôn đi kèm với thời cơ. Trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp, chúng
ta vẫn tin tưởng vào bản lĩnh và ý chí của dân tộc, kế thừa và phát
triển sáng tạo các bài học đối ngoại của ông cha ta, nhất là nghệ thuật
ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc tận dụng cơ hội, hóa giải thách thức, “biến nguy thành cơ”, phát huy tốt vai trò của nền ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam”: gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.
Trải
qua chặng đường cách mạng hơn 90 năm qua, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt
Nam được thành lập và lãnh đạo cách mạng, Việt Nam luôn luôn kiên định
mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường mà Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam hướng tới là nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp. Nền văn hóa mà
Việt Nam đang nỗ lực xây dựng là một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Nền đối ngoại
mà chúng ta khẳng định là nền đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện,
sâu rộng.
Hai mục tiêu 100 năm
mà Đại hội XIII của Đảng đề ra là bước cụ thể hóa mục tiêu trên của dân
tộc. Đây cũng sẽ là các cột mốc quan trọng trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội của nước ta, đáp ứng kỳ vọng ngày một tăng của cộng đồng
quốc tế đối với đất nước ta, dân tộc ta, với vai trò và trách nhiệm đóng
góp ngày một nhiều hơn, có ý nghĩa hơn đối với sự phát triển, sự phồn
vinh và tiến bộ của nhân loại.
Đại hội XIII của Đảng đặt mục tiêu đến năm 2030,
Việt Nam trở thành một quốc gia đang phát triển, có công nghiệp hiện
đại, thu nhập trung bình cao, có quy mô dân số và tốc độ tăng trưởng
kinh tế trong nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; là một nước phát triển hài
hoà, hoàn thành đầy đủ các mục tiêu phát triển bền vững cơ bản của Liên
hợp quốc; hội nhập toàn diện, sâu rộng, có vị thế, uy tín và được các
quốc gia khác tôn trọng trên trường quốc tế. Đến năm 2045, Việt Nam phấn đấu trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để
hiện thực hóa mục tiêu hùng cường của dân tộc, Việt Nam xác định “là
bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của
cộng đồng quốc tế”(23), góp phần xây dựng một thế giới hòa
bình, hợp tác cùng phát triển, tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Việt Nam chủ động, tích cực
đóng góp cho các vấn đề chung của khu vực và thế giới, phù hợp với năng
lực của Việt Nam. Việt Nam sẽ cùng các nước ASEAN xây dựng một Cộng đồng
vững mạnh, đoàn kết, có vai trò trung tâm trong các cơ chế đối thoại và
hợp tác ở khu vực; cùng xây dựng một khu vực hoà bình, không có xung
đột; cùng đấu tranh chống áp đặt, cường quyền; kiểm soát tốt bất đồng;
giải quyết hòa bình các tranh chấp nảy sinh. Việt Nam luôn luôn kiên
định thực hiện “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”(24),
“không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống
nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ
Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử
dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”(25). Việt Nam kiên quyết,
kiên trì “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở tôn
trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp
quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(26).
Đó
chính là mục tiêu để xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa,
thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; với
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, vì hòa
bình, hợp tác và phát triển.
Để
hiện thực hóa mục tiêu đó, cần phát huy vai trò tiên phong của đối
ngoại, xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc
“cây tre Việt Nam”.
Đại hội XIII đã xác định đối ngoại, ngoại giao là giữ vai trò tiên phong
trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động
các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy
tín của đất nước. Tiên phong trước hết cần thể hiện trong tư duy, nhận
thức; tiên phong trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; tiên phong trong
kiến tạo cơ hội để thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc; tiên phong trong
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là gắn kết sức mạnh cộng đồng người
Việt Nam trong và ngoài nước.
Nguyên tắc nhất quán của đối ngoại
là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Lợi ích cao nhất của
quốc gia - dân tộc chính là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; huy động và sử
dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để phát triển, không ngừng nâng
cao tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước.
Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa. Độc lập, tự
chủ đồng nghĩa với việc mọi quyết định phải trên cơ sở lợi ích quốc gia
- dân tộc và các nguyên tắc chung của cộng đồng quốc tế. Cần kết hợp
sức mạnh đất nước và điều kiện quốc tế thuận lợi để tạo cục diện có lợi
cho môi trường an ninh, phát triển của đất nước, xác định nguồn lực bên
trong là cơ bản, quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, cần
thiết. Độc lập, tự chủ là cơ sở để huy động ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo sức mạnh tổng hợp, qua đó giúp củng
cố độc lập, tự chủ. Độc lập, tự chủ được hiểu một cách biện chứng, linh
hoạt, trong đó hội nhập quốc tế là chấp nhận có nghĩa vụ, ràng buộc
nhất định, nhưng luôn bảo đảm sự độc lập, tự chủ của quốc gia trên tất
cả các mặt chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, văn hóa -
xã hội,...
Phương châm triển khai công tác đối ngoại, ngoại giao là
vận dụng nhuần nhuyễn và khéo léo bài học “dĩ bất biến, ứng vạn biến”,
kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược. Đó là sự kết hợp chặt
chẽ giữa mục tiêu chiến lược với tính linh hoạt, uyển chuyển của sách
lược tùy theo vấn đề, tùy từng thời điểm và đối tượng hay đối tác. Kiên
trì mục tiêu “bất biến” là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; kiên
định mục tiêu xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, bảo đảm sự lãnh đạo trực
tiếp, toàn diện của Đảng. “Vạn biến” trong phương cách thực hiện mục
tiêu; đồng thời linh hoạt, năng động thích ứng với môi trường khu vực và
quốc tế, với các xu thế toàn cầu mới và trong tìm kiếm biện pháp hóa
giải các thách thức từ bên ngoài. Theo đó, đối ngoại cần liên tục theo
sát những biến đổi của tình hình trong nước và quốc tế; kiên định lập
trường, nguyên tắc, song cũng linh hoạt thích ứng, chủ động kiến tạo cơ
hội trước sự thay đổi của tình hình.
Phương thức thực hiện công tác đối ngoại, ngoại giao là
sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ của nền ngoại giao toàn diện,
hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối
ngoại nhân dân. Đối ngoại là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của cả
hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, quản
lý tập trung của Nhà nước; sự gắn kết chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đối
ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Nền ngoại giao
Việt Nam toàn diện có sự tham gia của cả hệ thống chính trị, tổ chức xã
hội, địa phương, doanh nghiệp và nhân dân, triển khai trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội...
với các đối tác, địa bàn, khu vực.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Phu nhân cùng kiều bào thăm đền Ngọc Sơn, thành phố Hà Nội, ngày 26/1/2019. (Ảnh: TTXVN)
NHỮNG NHIỆM VỤ CHỦ YẾU CỦA CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI, NGOẠI GIAO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Một là, không ngừng đổi mới tư duy về đối ngoại. Đổi
mới tư duy về đối ngoại trước hết là sự kế thừa và phát triển truyền
thống ngoại giao của dân tộc, vận dụng sáng tạo, linh hoạt chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với sự phát triển nhận thức về
đối ngoại qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng và gắn với thực tiễn trong nước
và bối cảnh quốc tế của từng thời kỳ, chọn lọc và tiếp thu tinh hoa của
nhân loại. Đổi mới tư duy đúng và kịp thời sẽ
giúp tạo dựng và nắm bắt cơ hội, đổi mới tư duy chậm thì sẽ dẫn đến trì
trệ, thậm chí biến thành thách thức.
Đổi
mới tư duy về đối ngoại còn là việc bổ sung, linh hoạt điều chỉnh những
nội hàm quan trọng của đối ngoại như nhận thức về thế giới, định vị đất
nước, lợi ích quốc gia - dân tộc, quan hệ đối tác - đối tượng, vai trò
và phương thức triển khai đối ngoại... Các nội hàm này không bất biến,
mà có sự chuyển hóa linh hoạt đòi hỏi phải luôn luôn đổi mới, nắm bắt
những biến động nhanh chóng, bất ngờ để có đối sách ứng phó phù hợp. Đổi
mới tư duy về đối ngoại còn là việc vượt ra khỏi những lĩnh vực, tư duy
lạc hậu, mạnh dạn tìm hướng đi mới, cách làm mới, mở rộng ra các lĩnh
vực mới để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như đối ngoại số, đối ngoại công nghệ,
đối ngoại môi trường...
Hai là, chú trọng, làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “tầm nhìn phải rộng”, “suy nghĩ phải sâu”,
“biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”, “Lạc nước, hai xe đành
bỏ phí. Gặp thời, một tốt cũng thành công”(27). Do đó, công
tác nghiên cứu, dự báo chiến lược phải luôn đi trước để nắm bắt đúng xu
thế phát triển của tình hình, tạo thế chủ động cho đất nước, không để
rơi vào thế bị động, bất ngờ. Nghiên cứu, dự báo phải nhanh nhạy phát
hiện các vấn đề mới, nhận diện thời cơ và thách thức, từ đó tham mưu,
tìm ra hướng đi thuận lợi cho đất nước.
Nghiên
cứu, dự báo, tham mưu trước hết phải biết mình, định vị được vị thế của
đất nước trong cục diện thế giới, nhận thức rõ những điểm mạnh, điểm
yếu của mình, giá trị và vị trí chiến lược của đất nước trong chính sách
của các nước khác. Đánh giá, dự báo chiều hướng vận động của cục diện
thế giới, nhất là những biến chuyển trong cục diện thế giới sau những
biến cố lớn, quan hệ giữa các nước láng giềng, nước lớn, khu vực, các xu
thế phát triển, cố gắng phát hiện các vấn đề mới, xu thế mới, từ đó đề
xuất với Đảng và Nhà nước những chủ trương, quyết sách phù hợp. Các cơ
quan tham mưu cần phối hợp chặt chẽ để đánh giá, tham mưu một cách toàn
diện, khách quan, nhiều chiều, tổng thể và sâu sắc, nhất là trong những
vấn đề đối ngoại hệ trọng.
Ba
là, phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, ngoại giao trong việc
tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo
vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy” là nhiệm
vụ trọng yếu của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó
có sự đóng góp tích cực, thường xuyên, với vai trò tiên phong của đối
ngoại, ngoại giao. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, đồng thời phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển, nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước. Điều đó đòi
hỏi công tác đối ngoại, ngoại giao phải luôn luôn tỉnh táo, sáng suốt,
mềm mại nhưng kiên quyết, linh hoạt và thận trọng; có kế sách chủ động
ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột, đồng thời giữ vững nguyên tắc
giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, kiên trì tìm
kiếm, đề xuất các giải pháp cơ bản, lâu dài trên cơ sở luật pháp quốc
tế.
Để
giữ vững hòa bình, ổn định, trước hết cần coi trọng đưa quan hệ hợp
tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng đi vào chiều sâu, ổn
định, bền vững; đồng thời, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các
đối tác, nhất là các đối tác đặc biệt, đối tác chiến lược toàn diện, đối
tác chiến lược, đối tác toàn diện, các đối tác quan trọng khác và bạn
bè truyền thống, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy. Trong các
mối quan hệ quốc tế, tiếp tục nêu cao tinh thần hòa hiếu của dân tộc,
giữ gìn chữ “đồng” và chữ “tín”, phát huy các điểm đồng về lợi ích và
hợp tác chân thành, tin cậy, thực hiện nghiêm túc các cam kết, thỏa
thuận quốc tế. Có như vậy, Việt Nam mới giữ được các quan hệ đối ngoại
bền chặt, củng cố vững chắc cục diện đối ngoại thuận lợi, tranh thủ tối
đa sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế, tạo điều kiện kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Bốn là, đối ngoại tiếp tục đi đầu trong việc huy động các nguồn lực bên ngoài phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. Đất
nước ta đang đứng trước những biến chuyển hết sức sâu rộng của nền kinh
tế thế giới, nếu không vượt qua được những thách thức mới và phức tạp,
việc hoàn thành mục tiêu “trở thành nước phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa” vào giữa thế kỷ XXI sẽ rất khó khăn, thậm chí nguy cơ tụt
hậu sẽ càng xa hơn. Đối ngoại, ngoại giao cần phát huy hiệu quả các mối
quan hệ chính trị tốt đẹp, tranh thủ tối đa các yếu tố quốc tế thuận
lợi, tận dụng nội dung, hình thức mới của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để xác lập vị trí thích hợp và
tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất quốc tế, mở
rộng thị trường, thu hút đầu tư, công nghệ, tri thức phục vụ đổi mới mô
hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cần gắn kết
chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu
rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia; đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực.
Thấm
nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân phải
hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(28),
ngoại giao kinh tế phải lấy phục vụ làm phương châm hành động, lấy người
dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm. Các cơ quan đối ngoại
cần quan tâm kiến tạo môi trường quốc tế thuận lợi, mở đường, đồng hành,
hỗ trợ người dân, địa phương và doanh nghiệp tranh thủ tối đa cơ hội,
lợi ích và giảm thiểu rủi ro, vượt qua thách thức của hội nhập kinh tế
quốc tế, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, người dân và doanh
nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
Năm là, phát huy tối đa thế và lực mới để nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước.
Vị thế, uy tín của đất nước không chỉ dựa vào sức mạnh vật chất mà cả
“sức mạnh mềm”, đó là đại đoàn kết toàn dân tộc, truyền thống yêu nước, ý
chí tự lực, tự cường và bản sắc văn hóa truyền thống, là những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, là đường lối đối
ngoại hòa bình, nhân văn, nhân ái, nghĩa tình, tâm công, xử lý các vấn
đề quốc tế hài hòa, có lý, có tình, tôn trọng luật pháp quốc tế, là sự
đồng tình ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình, công lý trên thế
giới, v.v..
Với
thế và lực mới, chúng ta cần tiếp tục đóng góp tích cực hơn nữa vào nỗ
lực chung của cộng đồng quốc tế; mở rộng quan hệ và đẩy mạnh hợp tác với
các lực lượng chính trị, xã hội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ. Chủ động,
tích cực tham gia xây dựng, định hình các cơ chế, chuẩn mực luật pháp
quốc tế, cải tổ các định chế quản trị toàn cầu và khu vực, coi đây là
chỗ dựa vững chắc cho đối ngoại Việt Nam trên trường quốc tế. Chủ động
tham gia các sáng kiến mới phù hợp với luật pháp quốc tế và lợi ích của
Việt Nam. Thúc đẩy hợp tác đa phương trong các lĩnh vực mà Việt Nam có
nhiều lợi ích, đóng góp thiết thực, trách nhiệm với công việc chung của
nhân loại, nhất là trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm
chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể như ASEAN,
Liên hợp quốc, APEC, hợp tác Tiểu vùng Mêkông..., tiêu biểu như cử lực
lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
Đẩy
mạnh đổi mới nội dung, nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại
và ngoại giao văn hóa để thế giới hiểu đầy đủ, đúng đắn đường lối đối
nội và đối ngoại của Việt Nam, công cuộc đổi mới, tình hình phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta, hiểu biết và yêu mến đất nước, văn hóa và
con người Việt Nam với hàng nghìn năm văn hiến, lan tỏa các giá trị tư
tưởng,đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ra thế giới. Với tinh thần người
Việt Nam ở nước ngoài là máu thịt, là bộ phận không tách rời và là nguồn
lực quan trọng của cộng đồng dân tộc Việt Nam, cần
tiếp tục quan tâm, chăm lo, hỗ trợ cho cộng đồng 6 triệu người Việt Nam
ở nước ngoài ngày càng ổn định, phát triển, có địa vị pháp lý vững chắc
ở nước sở tại và gắn bó với quê hương, đất nước.
Sáu
là, kiện toàn tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác
đối ngoại toàn diện về bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức và trí tuệ, hiện đại
về phong cách, phương pháp làm việc, có năng lực đổi mới sáng tạo, đáp
ứng các yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới. “Mang
chuông đi đánh xứ người” là công việc rất khó khăn, vất vả, đòi hỏi
những phẩm chất đặc biệt của người làm công tác đối ngoại, ngoại giao.
Tại Hội nghị cán bộ ngoại giao lần thứ III (tháng 1-1964), Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: “Cán bộ ngoại giao cần phải học tập, tu dưỡng đạo đức
cách mạng; cần phải biết giữ bí mật; cần phải tiết kiệm đúng cách; cần
phải chú ý đoàn kết nội bộ; cần cố gắng nắm bắt tình hình nước sở tại và
tình hình quốc tế nhanh và chính xác”(29). Những lời dạy đó
của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là định hướng xuyên suốt để cán bộ làm
công tác đối ngoại phấn đấu, tu dưỡng và rèn luyện, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại là một đội ngũ
đặc biệt: tin cậy về phẩm chất, nhạy bén về thời thế, sâu sắc về chiến
lược, khôn khéo trong đàm phán và tinh tế trong ứng xử. Do vậy, cần phải
rèn luyện phong cách: suy nghĩ kỹ càng, hành động linh hoạt, kỹ năng
thành thạo; về năng lực phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và ngoại
ngữ giỏi. Cán bộ làm công tác đối ngoại phải thường xuyên rèn luyện bản
lĩnh chính trị và tư tưởng vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng
của Đảng, với lợi ích của dân tộc, tỉnh táo trước sự tác động, cám dỗ,
lôi kéo của các thế lực thù địch, chủ động tích cực phòng ngừa không để
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vướng vào tham nhũng, tiêu cực. Các nhà
ngoại giao, các nhà hoạt động đối ngoại cần luôn luôn ghi nhớ rằng,
phía sau mình là Đảng, là Nhà nước, là đất nước và nhân dân.
Trong
giai đoạn hiện nay, cán bộ đối ngoại, ngoại giao còn phải dám nghĩ, dám
nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu
với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích quốc gia - dân tộc,
có kỹ năng ngoại giao hiện đại và phong cách ứng xử liên văn hóa. Chúng
ta phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ năng lực để làm việc
tại các tổ chức quốc tế và khu vực, các cơ quan trọng tài, tư vấn quốc
tế. Chú trọng đào tạo, xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi trên một số lĩnh
vực trọng yếu. Bên cạnh đó, các thể chế, chính sách, pháp luật và nguồn
lực cho hoạt động đối ngoại, ngoại giao cũng cần được hoàn thiện, sắp
xếp, kiện toàn bộ máy của các cơ quan đối ngoại, ngoại giao cả ở trong
nước và nước ngoài tinh gọn, khoa học, hợp lý và hiệu quả.
* * *
Đất nước ta dù còn khó khăn, nhưng tương lai xán lạn đang nằm trong bàn tay và khối óc của mỗi người dân Việt Nam. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang đồng lòng, quyết tâm cao
nhất thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đảng ta luôn
dành cho công tác đối ngoại, ngoại giao sự quan tâm đặc biệt, trong đó
có sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, cũng như tiếp tục đầu tư thỏa đáng cả
về nguồn lực con người và nguồn lực vật chất. Đảng xác định đối ngoại,
ngoại giao là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và sẽ tiếp tục quan tâm
sát sao, tạo các điều kiện phù hợp hơn nữa về thể chế, nguồn lực một
cách tương xứng với nhiệm vụ và trọng trách của đối ngoại, ngoại giao
thời gian tới.
Hơn
90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ
sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc ngoại giao và văn hóa dân tộc,
tiếp thu chọn lọc tinh hoa tư tưởng của thời đại, chúng ta đã xây dựng
nên một nền ngoại giao độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản
sắc “cây tre Việt Nam”: gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.
Vững ở gốc là
nguyên tắc vì lợi ích quốc gia - dân tộc để phục vụ, là đường lối đối
ngoại độc lập - tự chủ, lấy thực lực làm gốc, lấy đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng để tạo
thế, lập thời; lấy phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng soi đường, chỉ lối. Đường lối đó đã mở
ra cho đất nước vận hội phát triển mới, có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay. Đường lối đó tiếp tục là nền tảng vững
chắc để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng phát triển với các mục tiêu
trong những thập niên sắp tới.
Chắc ở thân là
những phương thức tạo nên sức mạnh, trong đó sức mạnh đoàn kết là nhân
tố sống còn; đại đoàn kết trong nước là căn bản, đoàn kết quốc tế là
nhân tố bổ trợ hết sức quan trọng. Sức mạnh tổng hợp của đối ngoại có
được dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý tập
trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại... Sức mạnh của Việt Nam
còn ở tính chính danh, chính nghĩa, cách ứng xử nhân văn, thủy chung,
thượng tôn pháp luật và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.
Uyển chuyển ở cành là
phong cách, nghệ thuật ứng xử linh hoạt, nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng
vạn biến”, đặc biệt trong các hoàn cảnh khó khăn, phức tạp, có sự mâu
thuẫn giữa những xu thế khác nhau, giữa đòi hỏi phải hài hòa cái chung
và cái riêng, nhằm giữ vững bản sắc, giá trị đất nước và bảo đảm cao
nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam phù hợp với những giá trị chung
của nhân loại. Đó là cách ứng xử “biết mình, biết người”, “biết thời,
biết thế”, “biết dừng, biết biến” của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Trước những biến chuyển lớn của thời đại, đối ngoại, ngoại giao Việt Nam càng thể hiện rõ ràng bản sắc “cây tre Việt Nam”: gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, để
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát huy
mạnh mẽ lợi ích quốc gia - dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hùng cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, để vinh quang đời đời
thuộc về dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng.
Tôi
tin tưởng rằng, trong thời gian tới, dù phải đối mặt với không ít khó
khăn, thách thức, các thế hệ cán bộ đối ngoại, ngoại giao vẫn thể hiện
được trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức và cốt cách của nền ngoại giao thời đại
Hồ Chí Minh và kế thừa, tiếp thu truyền thống đối ngoại của dân tộc Việt
Nam, tiếp tục nhận được sự tin tưởng, ủng hộ và đáp ứng được sự kỳ vọng
của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.
NGUYỄN PHÚ TRỌNG
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
___________________
(1) (28) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.4, tr.147, 51.
(2) (7) (12) (18) (19) (20) (22) (23) (24) (26) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.105-106, 101, 101, 162, 157, 104, 105, 101, 101, 101.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2007, t.51, tr.49.
(4) (14) (15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.146, 209, 209.
(5) (9) (13) (16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.154, 209, 212, 212.
(6) (17) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.236, 139.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.55, tr.330.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.236; Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.79.
(11) Nghị
quyết số 01-NQ/TW, ngày 18/11/1996 của Bộ Chính trị về mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996-2000 và Nghị quyết số
07-NQ/TW, ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế.
(21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.265.
(25) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2019, tr.25.
(27) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.326.
(29) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, t.9, tr.6.
(Nguồn: TC Cộng sản)