“BỆNH” SỢ TRÁCH NHIỆM
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: “Trách nhiệm là điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình”(1). Như vậy, trách nhiệm là nghĩa vụ mà cán bộ, công chức phải gánh vác mà nếu không hoàn thành nhiệm vụ sẽ phải chịu trách nhiệm trước Đảng và quy định pháp luật và quy định của cơ quan. Tuy nhiên, thời gian qua, căn bệnh “sợ trách nhiệm” lại diễn ra khá rộng và ở mọi ngành, mọi cấp, mọi địa bàn, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong di sản tư tưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến căn nguyên của căn bệnh này rất cụ thể: “Có lợi cho tôi thì tôi tích cực; không có lợi cho tôi thì tôi tiêu cực. Tôi muốn có địa vị cao, nhưng lại sợ trách nhiệm”(2). Theo Bác, những người mắc bệnh sợ trách nhiệm là những người: “Họ muốn địa vị cao, nhưng lại sợ trách nhiệm nặng. Dần dần tinh thần đấu tranh và tính tích cực của họ bị kém sút, chí khí anh dũng và phẩm chất tốt đẹp của người cách mạng cũng kém sút; họ quên rằng tiêu chuẩn số một của người cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”(3).
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn”(4).
Theo dòng lịch sử, chúng ta thấy có một sự nhất quán về tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam về nội dung này. Cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được ra mắt vào đúng dịp kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đảng cho thấy điều đó.
Trong Phần thứ hai của cuốn sách với tên gọi: Nhất quán phương châm - Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, từ sớm, từ xa, cả ngọn lẫn gốc, tuyển chọn 20 bài viết tiêu biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên - công tác luôn được đồng chí Tổng Bí thư dành sự quan tâm đặc biệt dù ở trên cương vị công tác nào, ở thời kỳ nào. Bài đầu tiên của phần thứ hai có tiêu đề “Bệnh sợ trách nhiệm”, đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 11/1973; bút danh Người xây dựng.
Tác giả đã chỉ rõ căn bệnh sợ trách nhiệm và những biểu hiện của nó: Nhiệm vụ trước mắt đòi hỏi mọi người phải có tinh thần trách nhiệm rất cao, nhưng hiện nay trong cán bộ, đảng viên ta còn có những đồng chí sợ trách nhiệm.
Biểu hiện của bệnh sợ trách nhiệm là: Người sợ trách nhiệm thường làm việc một cách cầm chừng cho “đủ bổn phận”, cốt sao không phạm phải khuyết điểm gì lớn. Vì luôn luôn lo sợ phải chịu trách nhiệm về những việc sẽ xảy ra, cho nên không muốn cải tiến công tác, không dám mạnh dạn thay đổi những cái không hợp lý, chỉ làm theo nếp cũ(5).
Người sợ trách nhiệm thường rụt rè, do dự trong khi giải quyết công việc, không phát biểu rõ ràng, dứt khoát ý kiến riêng của mình, không dám quyết đoán những việc thuộc phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình. Vì muốn trốn tránh trách nhiệm cá nhân của mình, các đồng chí này thường vin vào lý do chưa có chỉ thị của cấp trên để ỷ lại và chờ đợi một cách thụ động.
Người sợ trách nhiệm cũng thường lấy lý do làm việc tập thể, tôn trọng tập thể để dựa dẫm vào tập thể.
Người sợ trách nhiệm còn ngại “va chạm” trong quan hệ với các đồng chí trong đơn vị, với cấp trên và cả với cấp dưới(6).
Hậu quả có bệnh sợ trách nhiệm là: một trở ngại cho công tác của Đảng và Nhà nước, làm cho công việc bị trì trệ, dậm chân tại chỗ, làm cho những nhân tố mới không phát huy được, những khuyết điểm và nhược điểm không được khắc phục kịp thời, và làm cho trình độ, năng lực công tác của cán bộ chậm được nâng cao(7).
Từ việc chỉ ra các biểu hiện của bệnh sợ trách nhiệm, tác giả cũng chỉ rõ: Nguồn gốc chủ yếu của bệnh sợ trách nhiệm là chủ nghĩa cá nhân. Chính vì luôn luôn tính toán cho lợi ích cá nhân, bo bo “bảo vệ” lấy cái cá nhân của mình mà mất cả dũng khí đấu tranh, thiếu hẳn “tinh thần trách nhiệm nghiêm túc, tính kiên quyết, tính nguyên tắc trong khi giải quyết các vấn đề”(8), không dám đương đầu trước khó khăn, không dám nghĩ, không dám làm, chỉ tránh khó ngại phiền. Vì vậy, khắc phục bệnh sợ trách nhiệm trước hết là phải chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao tinh thần cách mạng của cán bộ, đảng viên, làm cho mỗi người đều có tinh thần xả thân vì sự nghiệp cách mạng, đều thật sự “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(9) như Hồ Chủ tịch đã dạy.
KHẮC PHỤC “BỆNH” SỢ TRÁCH NHIỆM
Mặc dù căn bệnh sợ trách nhiệm đã được các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam chỉ rõ nhưng thời gian vừa qua căn bệnh này lại tiếp tục diễn ra trên phạm vi rộng. Căn bệnh sợ trách nhiệm gây ra nhiều hậu quả rất nghiêm trọng. Điển hình nhất là kích thích tâm lý ỷ lại, dựa dẫm và hình thành một bộ phận cán bộ núp bóng, không vì lợi ích chung, dĩ hòa vi quý, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh, có biểu hiện thờ ơ, vô cảm với trách nhiệm được giao và trách nhiệm với nhân dân. Trong khi đó, người năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám đấu tranh đôi khi lại bị hiểu sai, thậm chí rất dễ bị quy chụp và xử lý trách nhiệm.
Để kịp thời khắc phục tình trạng này, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 về “Chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”. Để khắc phục “bệnh” sợ trách nhiệm đang diễn ra hiện nay, thiết nghĩ thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, thống nhất nhận thức, trách nhiệm về nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, công chức.
Như ở trên đã đề cập, cái gốc của bệnh sợ trách nhiệm là chủ nghĩa cá nhân, là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức lối sống. Tăng cường giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng nhằm hình thành trong đội ngũ cán bộ, công chức các yếu tố cơ bản về nhận thức chính trị, thái độ chính trị và hành vi chính trị. Cụ thể:
Mỗi cán bộ, công chức có nhận thức chính trị đúng với sự hiểu biết về đường lối, quan điểm chính trị, về nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, sự hiểu biết và tin tưởng vào mục đích, lý tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, vai trò, trách nhiệm của cán bộ, công chức hình thành tình cảm, ý chí cách mạng của người cán bộ, công chức.
Thái độ chính trị của cán bộ, công chức đúng là những biểu hiện, cử chỉ, lời nói, việc làm của người cán bộ, công chức xuất phát từ nhận thức, suy nghĩ, tình cảm trước những vấn đề chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng. Thái độ chính trị phản ánh cách nhìn nhận, suy nghĩ và chi phối hành động của người cán bộ, công chức bao gồm lòng trung thành, tính vững vàng, kiên định về lập trường, tư tưởng chính trị. Cán bộ, công chức phải là người tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, trung thành với Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thái độ chính trị của cán bộ đúng hay không đúng; kiên quyết, dứt khoát hay nửa vời, chập chừng, do dự; nghiêm túc hay không nghiêm túc... có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện trách nhiệm của người cán bộ, công chức.
Hành vi chính trị của người cán bộ, công chức là hành động mang tính chính trị, như tiên phong, gương mẫu trong công tác, lao động, học tập, sinh hoạt; đi đầu trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực về chính trị.
Trong tình hình hiện nay, phẩm chất chính trị của cán bộ, công chức chính là kiên định, tin tưởng mục tiêu do Đảng đề ra, không hoang mang dao động về chính trị tư tưởng, có niềm tin vào sự nghiệp đổi mới đất nước, có bản lĩnh chính trị, nhạy bén, luôn nêu cao cảnh giác, có thái độ đúng đắn trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế - xã hội, phân biệt rõ đối tượng, đối tác. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, công chức sẽ góp phần tạo nên sức mạnh, uy tín, sự thống nhất ý chí, hành động và từ đó khắc phục được căn bệnh sợ trách nhiệm đang diễn ra hiện nay.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Thực tế cho thấy, có tình trạng đùn đẩy, không làm hết trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, vướng là “đẩy lên trên” hoặc “đẩy xuống dưới”, cần tập trung rà soát những bất cập, nhanh chóng sửa đổi những quy định của pháp luật có liên quan theo hướng rõ ràng, minh bạch hơn; cá thể hóa trách nhiệm của từng cá nhân và phải được cụ thể hóa thành luật. Trong đó, cần rà soát, nghiên cứu bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ và tính răn đe, giáo dục; không để người xấu, người thiếu trách nhiệm lợi dụng kẻ hở để trục lợi và cũng tạo ra sự yên tâm cho cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII và nhiệm kỳ đại hội XIII, Đảng ta đã ban hành hàng loạt các quy định như: Chỉ thị số 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Quy định số 55-QĐ/TW về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy định số 08-QĐi/TW về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 về “Chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”... Tuy vậy, để khắc phục căn bệnh sợ trách nhiệm, khuyến khích sự sáng tạo, bảo vệ cán bộ, để chủ trương đi vào cuộc sống cần thể chế hóa quy định của Đảng thành pháp luật, tránh tình trạng xử lý chưa thống nhất, đồng bộ và tùy tiện.
Thực tế thời gian qua cho thấy, do chưa được luật hóa các quy định về bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung nên đã hình thành tâm lý chờ đợi nghe ngóng dẫn đến những tác động như đã diễn ra thời gian qua. Thời gian tới, Quốc hội, Chính phủ cần rà soát các văn bản pháp luật đề xuất sửa đổi, khắc phục mâu thuẫn chồng chéo. Kịp thời thể chế hóa quy định của Đảng thành pháp luật để khắc phục bệnh sợ trách nhiệm và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung; nghiên cứu sửa đổi những quy định của pháp luật còn chung chung, thậm chí có mâu thuẫn về cách hiểu và cách áp dụng, nhất là quy định về kinh tế, dân sự để tránh xu hướng “hành chính hóa”, “hình sự hóa” trong thực thi công vụ gây nên tâm lý lo sợ trong thực hiện công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức.
Thứ ba, đổi mới phương pháp đánh giá cán bộ, công chức: thực hiện mạnh mẽ giữa xây và chống, để khuyến khích tinh thần dám đương đầu với khó khăn, dám sáng tạo, đột phá vươn lên thì đổi mới công tác đánh giá cán bộ, xóa tư tưởng “an phận thủ thường”, “làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít, không làm không sai” trong một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức. Cách đánh giá cần phải giúp người được giao việc, nhất là việc mới, việc khó vững tâm tin rằng, nếu mình làm vì lợi ích chung thì sẽ được nhìn nhận đúng.
Đánh giá đúng chính là phát huy được tinh thần dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước công việc của mình để đội ngũ cán bộ cán bộ, công chức khắc phục được bệnh sợ trách nhiệm, vươn lên hoàn thành tốt trách nhiệm công vụ được giao. Khi cán bộ, công chức được đánh giá đúng, sẽ khơi dậy sự chủ động, sáng tạo trong công việc, kiên quyết thực hiện dám nghĩ, dám nói, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước công việc của mình, tránh tình trạng chọn việc nhẹ, việc dễ và có “bổng lộc” mà đùn đẩy việc khó cho người khác, cho tập thể. Đánh giá đúng cán bô, công chức còn góp phần khơi dậy ý thức của bản thân đối với công việc hằng ngày, dám thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, biết nhận lỗi để sửa chữa, khắc phục nhằm thực hiện tốt hơn trách nhiệm được giao. Đồng thời, đánh giá đúng, công tâm, khách quan sẽ ngăn ngừa được tình trạng “tranh công, đổ lỗi” không dám nhận trách nhiệm, không nhìn nhận đúng bản chất của sự việc để có những cải tiến và đổi mới tìm ra phương pháp, cách làm phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Thứ tư, tăng cường tự soi tự sửa, tự rèn luyện đạo đức lối sống của mỗi cán bộ, công chức góp phần vào khắc phục bệnh sợ trách nhiệm.
Thường xuyên trau dồi, củng cố và giáo dục đạo đức cách mạng, phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết, có lối sống giản dị trong sạch, không xa hoa lãng phí. Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu trong tu dưỡng phấn đấu của mỗi cán bộ, công chức.
Phẩm chất đạo đức, lối sống của người cán bộ, công chức quan hệ mật thiết với phẩm chất chính trị. Phẩm chất chính trị chi phối, quy định phẩm chất đạo đức; phẩm chất đạo đức tác động tới sự phát triển phẩm chất chính trị. Người cán bộ có giác ngộ chính trị, có niềm tin sâu sắc vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa sẽ giúp họ có tình yêu thương đồng chí, kính trọng nhân dân, quan tâm giúp đỡ mọi người, biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích cách mạng. Những phẩm chất đạo đức tốt đẹp như Nhân, Nghĩ, Trí, Dũng, Liêm sẽ giúp người cán bộ, công chức củng cố, phát triển các phẩm chất chính trị như sự kiên định lập trường, tư tưởng, tính tiên phong, gương mẫu của người cán bộ, công chức. Quan hệ biện chứng giữa phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của người cán bộ, công chức tạo nên phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ, công chức thường được gọi là "phẩm chất" hay mặt “đức” và “tài”, “hồng” và “chuyên” của cán bộ, công chức.
Đây cũng là cách thiết thực để cụ thể hóa Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị về “Chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”. Trong đó, đánh giá đúng cán bộ của lãnh đạo cơ quan đơn vị và tập thể cơ quan là “điểm tựa” cho tinh thần trách nhiệm của từng cán bộ dám nghĩ, dám làm vì sự nghiệp chung, vì lợi ích của nhân dân, góp phần khắc phụ bệnh sợ trách nhiệm.
Thứ năm, tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức và thực hiện tốt khen thưởng, kỷ luật nhằm khắc phục bệnh sợ trách nhiệm.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm các nội dung kiểm tra, giám sát việc cán bộ quán triệt, tổ chức thực hiện Cương lĩnh, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, điều lệ, quy chế, quy định, kết luận của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; rèn luyện đạo đức, lối sống; thực hiện nghiêm những điều đảng viên không được làm; việc giữ gìn đoàn kết nội bộ; quan hệ với cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trên cơ sở mở rộng, đề cao dân chủ nhằm kích hoạt tinh thần dám nghĩ, dám làm và các nhân tố mới.
Thực hiện linh hoạt các phương pháp kiểm tra, giám sát trực tiếp và hình thức kiểm tra cán bộ, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, địa phương, đơn vị; ủy ban kiểm tra các cấp cần thực hiện đúng thẩm quyền, trách nhiệm của mình trong kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức.
Mỗi cán bộ, công chức đều có trách nhiệm tự kiểm tra, giám sát mình hằng ngày trong cả lời nói và việc làm. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải nắm chắc từng cán bộ cả về đức, tài và nhanh chóng có biện pháp hữu hiệu khắc phục bệnh sợ trách nhiệm.
Việc khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức thực hiện theo các quy định của Đảng và Luật Cán bộ, công chức, Luật Thi đua, khen thưởng; quy định về thi đua khen thưởng, kỷ luật của tổ chức mà cán bộ, công chức là thành viên.
Đảm bảo nguyên tắc chung là khen thưởng đúng người, đúng thành tích và đúng lúc; kỷ luật đúng người, đúng mức độ vi phạm, đúng quy định của Đảng, của tổ chức công đoàn và đúng pháp luật. Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng để tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua một cách thực chất, không phô trương hình thức, khắc phục bệnh thành tích cũng là cách để khắc phục bệnh sợ trách nhiệm hiện nay./.
PGS. TS. LÊ VĂN CƯỜNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
-------------------
(1) Nguyễn Như Ý (chủ biên): Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H, 1998, tr.1678.
(2) (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2023, t. 11, tr. 467, 605.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.315.
(5) (6) (7) Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2023, tr.466, 467, 468.
(8) Lê Duẩn: Mấy vấn đề về cán bộ và về tổ chức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.435.