Ngành công nghiệp hỗ trợ được xem như nền tảng cho sự phát triển của
nhiều ngành công nghiệp khác. Trong những năm qua, Việt Nam đón
nhận những bước nhảy vọt về hội nhập khi hàng loạt hiệp định
thương mại tự do song phương, đa phương lớn được ký kết.
Đứng trước cơ hội này, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của
Việt Nam mặc dù được sự trợ giúp từ các cơ chế, chính sách nhưng vẫn
vướng nhiều khó khăn. Làm sao để chen chân được vào thị trường công
nghiệp hỗ trợ của các tập đoàn lớn, ở vị trí có giá trị gia tăng
cao hơn đang là thách thức không hề nhỏ với các doanh nghiệp hỗ trợ Việt
Nam.
Nhiều nhưng chưa đủ
Theo báo cáo từ Bộ Công Thương, những năm qua, Chính phủ đã ban
hành nhiều chính sách nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ. Có
thể kể đến như Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg quy định về chính
sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ và Quyết định
số 1483/QĐ-TTg ban hành danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu
tiên phát triển. Tiếp theo, ngày 8/10/2014, Bộ Công Thương đã có
Quyết định số 9028/QĐ-BCT phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển công
nghiệp hỗ trợ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Mục tiêu chung của Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 nhằm đảm bảo đến năm 2020, Việt Nam cơ
bản trở thành nước công nghiệp. Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng được
45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất (đến năm 2030, tỷ lệ này là 70%),
tiêu dùng nội địa, xuất khẩu 25% giá trị sản xuất công nghiệp.
Để tiếp tục xây dựng các chính sách hỗ trợ công nghiệp, Thủ
tướng Chính phủ cũng đã ký ban hành Nghị định 111/2015/NĐ-CP
về phát triển công nghiệp hỗ trợ có hiệu lực từ đầu năm 2016.
Bộ Công Thương cùng các bộ ngành cũng đã có nhiều thông tư quy
định trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi cho các sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ, hướng dẫn cho vay phát triển công nghiệp hỗ
trợ, khai thuế giá trị gia tăng và ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ
trợ tại Việt Nam…
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng, trong giai đoạn vừa
qua, các chính sách cho phát triển công nghiệp hỗ trợ đã được ban
hành tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, do điều kiện ngân sách còn
hạn hẹp, trong khi đó còn nhiều mục tiêu quan trọng khác, nguồn
lực dành cho phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp
chế tạo còn rất hạn chế.
Theo phó giáo sư-tiến sỹ Tạ Lợi, Viện Thương mại và Kinh tế Quốc
tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, có 3 cản trở lớn nhất khiến
doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ khó tham gia vào
chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh hội nhập là vốn, trình
độ nhân sự và công nghệ.
Phó giáo sư-tiến sỹ Tạ Lợi cho rằng các doanh nghiệp công nghiệp
hỗ trợ, chế tạo chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiếu
vốn và năng lực tài chính yếu kém nên gặp khó trong đầu tư cũng
như mở rộng đầu tư. Trong khi đó, nhân lực, năng suất lao động
của Việt Nam đứng ở tầng thấp trong khu vực (cao gấp 2 lần Lào
nhưng kém Singapore khoảng 15 lần, kém Malaysia 6 lần, kém Thái
Lan 4 lần).
Về mặt công nghệ, Việt Nam vẫn chỉ đạt ở mức trung bình trong
khu vực với các sản phẩm làm ra chủ yếu đạt mức độ công nghệ
trung bình và thấp, trong khi chi phí đầu vào quá cao so với
nhà cung cấp cạnh tranh khác trong khu vực.
Là một trong những ngành có đóng góp cho sự phát triển của công nghiệp
Việt Nam, công nghiệp điện tử Việt Nam trong những năm gần đây có
tốc độ tăng trưởng mạnh, trung bình hàng năm khoảng 30%; cùng
với đó là sự xuất hiện của nhiều tập đoàn công nghệ lớn
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam như Samsung, Canon, Nokia,
Electronic… Trong 6 năm từ năm 2010 - 2015, từ mốc 7,6 tỷ USD doanh thu
năm 2010, đến năm 2015 tổng doanh thu của ngành này ước đạt 49,5 tỷ USD,
gần gấp 7 lần so với năm 2010.
Theo Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thành Hưng,
mặc dù có tốc độ phát triển mạnh song thực tế, trong các sản
phẩm sản xuất lắp ráp ở Việt Nam, giá trị nhập khẩu các
linh kiện khá lớn, trong khi giá trị gia tăng do sản xuất trong
nước lại chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ không đáng kể. Ngành công
nghệ điện tử Việt Nam đang là một trong rất nhiều ngành công
nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam nói chung, đứng ở vị trí gia công,
lắp ráp.
Thống kê của Bộ Công Thương cho thấy hiện nay ngành công nghiệp
hỗ trợ phụ thuộc đến 80% nguồn nguyên liệu nhập khẩu, tỷ lệ
nội địa hóa nhìn chung chỉ chiếm khoảng 25-30%, sản phẩm
thường do các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đảm nhiệm. Ở một
số ngành trong điểm như ôtô, da giày, dệt may..., tỷ lệ cung ứng
nguyên liệu cũng chỉ chiếm khoảng 20% chủ yếu với các sản phẩm đơn
giản như cây kim, sợi chỉ, ốc vít… Trong khi đó, các doanh
nghiệp Việt Nam mới chỉ tập trung mở rộng quy mô mà thiếu đầu
tư chiều sâu vào công nghệ, thiết bị.
Theo ông Huỳnh Lưu Đức Toàn, đại diện Đại học Ngân hàng Thành
phố Hồ Chí Minh, lý thuyết về khả năng tồn tại trên thị trường
của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước là có thể. Nhưng
với sự hạn chế từ nội tại, các doanh nghiệp nước ngoài muốn
hỗ trợ, chuyển giao công nghệ nhưng phải liên kết với những
doanh nghiệp manh mún, phải xây dựng lại từ con số âm, có chăng
sẽ là sự e dè.
Ngay cả khi Việt Nam đã được sự quan tâm, tìm kiếm hợp tác từ
Nhật Bản - một cường quốc trong công nghiệp hỗ trợ để thúc đẩy phát
triển ngành công nghiệp này nhưng Việt Nam dường như vẫn khó “chen
chân” vào thị trường công nghiệp hỗ trợ.
Minh chứng cho điều này ông Atsusuke Kawada, Trưởng văn phòng Đại diện
Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại Hà Nội cho biết tỷ lệ
cung ứng nguyên vật liệu và linh kiện tại chỗ của Việt Nam
chỉ là 33,2%, cao hơn Philippines (28,4%) nhưng thấp hơn Trung Quốc
(66,2%), Thái Lan (54,8%), Indonesia (43%), Malaysia (40,7%). Nhiều
doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam đã phải dựa vào nhập khẩu
nguyên vật liệu, phụ tùng từ các nước lân cận này để sản
xuất.
Theo các chuyên gia, hệ thống chính sách khuyến khích của Nhà nước về
phát triển công nghiệp hỗ trợ đã khá đầy đủ, có rất nhiều ưu đãi
vượt trội. Song để hệ thống chính sách này tới được các doanh nghiệp
lại là chuyện khác.
Chuyên gia tài chính Cấn Văn Lực cho rằng trong khi các doanh nghiệp
công nghiệp hỗ trợ có năng lực tài chính yếu thì hiện các chính sách
về tài chính chưa “chạm” đến được. Chưa kể một số nghị định, thông tư
chưa đồng bộ, nhất quán, công khai, minh bạch và chưa dễ tiếp cận.
Ông Huỳnh Lưu Đức Toàn chứng minh trong bảng lãi suất ưu đãi năm
2015 của ngân hàng có chỉ định ưu tiên lãi suất đối với doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên, ưu tiên ấy lại
không thật sự đến với doanh nghiệp cần sự giúp đỡ, khi những
quy định ràng buộc về quy trình cho vay còn chồng chéo, phức
tạp.
Chính vì vậy, nhiều năm qua, không chỉ riêng Samsung mà Electronic,
Sony, Toshiba… đều yêu cầu phía đối tác phụ trợ cung ứng sản
phẩm chất lượng đồng nhất với số lượng lớn nhưng các doanh nghiệp
đều cam chịu là doanh nghiệp thứ cấp để từ từ học hỏi kinh
nghiệm, chuyển giao công nghệ và tập trung vốn để trở thành nhà
cung cấp chính. Nhưng nếu không có sự hỗ trợ về lãi suất và
các ưu đãi từ Chính phủ thì con đường này sẽ rất gian nan với
doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ ở Việt Nam, ông Toàn cho
biết.
Tìm cách gỡ khó
Nhận thức được sự yếu kém của ngành công nghiệp hỗ trợ, từ
năm 2012 tới nay, Bộ Công Thương đã tích cực hợp tác chặt chẽ
với Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc để đào
tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ ngành công nghiệp hỗ trợ
trong các lĩnh vực điện-điện tử, cơ khí chế tạo, dệt may, ô
tô.
Tính đến hết năm 2014, chỉ có 4/79 doanh nghiệp Việt Nam cung
cấp linh kiện, phụ tùng cho Samsung tại Việt Nam. Nhưng từ đầu
năm 2015, Bộ Công Thương đã tích cực làm việc với Tập đoàn
Samsung tại Việt Nam để kết nối các doanh nghiệp công nghiệp hỗ
trợ của Việt Nam tham gia vào chuỗi sản xuất của Samsung. Đến
nay, đã có thêm 6 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam
tham gia được vào chuỗi sản xuất của Samsung Việt Nam.
Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng xây dựng hệ thống Trung tâm phát
triển công nghiệp hỗ trợ nhằm giúp các doanh nghiệp về mặt
công nghệ và quản trị, kiểm định chất lượng và chuyển giao
công nghệ, thiết kế; Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ
nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nội địa về công nghệ, đào tạo nhân
lực, quản trị sản xuất, tạo dựng thị trường… kết nối với
các tập đoàn đa quốc gia và các nhà cung ứng là doanh nghiệp
FDI nhằm tìm đầu ra cho sản phẩm, từng bước tham gia vào chuỗi
sản xuất…
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng, để phát triển mạnh
mẽ ngành công nghiệp hỗ trợ trong các lĩnh vực cơ khí, ô tô,
dệt may-da giày, điện tử... thì ngoài việc tận dụng các dự
án đầu tư lớn có chiều sâu về nghiên cứu và phát triển của
các tập đoàn tại Việt Nam như Samsung, Electronic..., các cơ quan
quản lý nhà nước vẫn phải là đầu mối, phối hợp chặt chẽ
với các tập đoàn này để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tham gia ngày càng sâu vào chuỗi
sản xuất toàn cầu. Đây chính là một cầu nối quan trọng tạo
thị trường đầu ra cho các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, nhà nước cần đầu tư nguồn lực phù hợp để hỗ
trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, đặc
biệt là nhóm các doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua hỗ trợ về
vốn tín dụng, công nghệ, đào tạo nhân lực và các ưu đãi về
thuế, cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, ông Yeon In Jung, Tổng Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Công nghiệp nặng Doosan Việt Nam cho rằng Chính phủ Việt Nam cần xây
dựng chiến lược dài hạn tập trung hỗ trợ cho doanh nghiệp, có lựa chọn
và tập trung, đảm bảo chất lượng quốc tế. Việt Nam cần phát triển những
cơ quan chứng nhận các sản phẩm đạt chuẩn, chứng nhận sản xuất an toàn,
đảm bảo môi trường. Đặc biệt, để đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng quốc
tế, cần nhân lực lành nghề và kiểm soát chất lượng.
Nhằm cụ thể hóa việc trợ giúp các doanh nghiệp công nghiệp hỗ
trợ phát triển, tham gia được vào chuỗi sản xuất của các tập
đoàn đa quốc gia, các nhà lắp ráp thế giới, hiện Bộ Công
Thương cũng chủ trì soạn thảo Chương trình phát triển công
nghiệp hỗ trợ để giúp các doanh nghiệp này phát triển trong
sức ép cạnh tranh gay gắt của quá trình hội nhập quốc tế./.
Khánh Linh (TTXVN)