Thời gian
qua, bên cạnh việc bịa đặt, vu khống về tình hình tôn giáo và nhân
quyền ở Việt Nam để chống phá Đảng, Nhà nước ta, một số cá nhân, tổ chức
phản động, cực đoan, thiếu thiện chí còn thường xuyên lợi dụng và đẩy
mạnh việc chính trị hóa, quốc tế hóa các vấn đề dân tộc nhằm tạo cớ gây
sức ép và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Trong đó
chúng lợi dụng những bất cập trong vấn đề bảo tồn và phát triển ngôn ngữ
của các tộc người ở một vài địa phương, kêu gọi việc cần phải tổ chức
hội thảo quốc tế về người dân tộc thiểu số nhằm khơi gợi, kích động tư
tưởng dân tộc chủ nghĩa và ly khai tự trị ở một số tộc người. Nhiều nội
dung xuyên tạc đã được chúng đăng tải trên một số tạp chí hải ngoại,
mạng xã hội để kêu gọi dư luận quốc tế “lên tiếng” về vấn đề người dân
tộc thiểu số tại Việt Nam.
Chẳng hạn, các đối tượng phản động đã
đứng ra thành lập những hội nhóm trái pháp luật với khẩu hiệu “bảo tồn
và phát triển lịch sử, tôn giáo và văn hóa người Khmer” nhưng thực chất
hoạt động chủ yếu là tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ đồng bào dân tộc
Khmer Nam Bộ với người Kinh, bôi nhọ, hạ thấp uy tín những chức sắc, sư
sãi yêu nước, tiến bộ, từ đó kích động ly khai, kêu gọi người dân tham
gia đấu tranh thành lập cái gọi là “Nhà nước Khmer Krôm”...
Hay
thông qua các chương trình về tiếng nói và chữ viết của người dân tộc
thiểu số tại khu vực Tây Bắc và Tây Nguyên, một số đối tượng chống đối
đã thực hiện thủ đoạn “diễn biến hòa bình” bằng việc bóp méo, xuyên tạc
tình hình bảo tồn văn hóa của người dân tộc; xuyên tạc những vấn đề lịch
sử để chia rẽ người dân tộc với người Kinh. Thâm độc hơn, chúng còn
thường xuyên dùng các thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo người có uy tín trong
đồng bào dân tộc để qua đó tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước bằng chính tiếng nói của họ.
Đặc biệt,
một số đối tượng được hậu thuẫn bởi các tổ chức phản động ở nước ngoài
đã sử dụng các đài phát thanh bằng tiếng dân tộc ở hải ngoại, in ấn phát
hành các văn hóa phẩm bằng ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc nhằm
truyền đạo và lan truyền thông tin chống đối Đảng, Nhà nước, chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng khai thác các hiện tượng riêng lẻ về
vấn đề dân tộc như tiếng nói, chữ viết hay bảo tồn văn hóa của các tộc
người thiểu số rồi thổi phồng lên thành mâu thuẫn dân tộc và kêu gọi cần
phải có biện pháp “bảo vệ quyền con người”, “bảo vệ quyền của người dân
tộc thiểu số”... để kích động, dẫn dắt một số người nhẹ dạ, cả tin hoặc
thiếu hiểu biết.
Thực tế, từ khi thành lập nước đến nay, chính
sách về bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số
của Đảng, Nhà nước luôn nhất quán trong công tác chỉ đạo và thực hiện.
Tại Điều 15, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (năm
1946) nêu rõ: “Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có
quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp”.
Điều
này được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 cũng
như nhiều văn bản pháp luật của Quốc hội và Chính phủ. Tại khoản 3 Điều 5
Hiến pháp năm 2013 quy định “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân
tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”.
Năm
1980, Hội đồng Bộ trưởng đưa ra chủ trương đối với chữ viết của các dân
tộc thiểu số trong Quyết định số 53-CP ngày 22/2/1980, trong đó xác
định: “Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa là
vốn quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hóa chung của cả nước. Ở
các vùng dân tộc thiểu số, tiếng và chữ dân tộc được dùng đồng thời với
tiếng và chữ phổ thông”. Luật Phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 cũng
quy định rõ các dân tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết
của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học.
Trong
Luật Giáo dục được ban hành sau đó vào các năm 1998 và 2019 đều khẳng
định Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số
được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình, qua đó phát huy những
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc,
góp phần tạo ra giá trị văn hóa đa màu sắc của dân tộc Việt Nam.
Hiệu
quả của các chính sách trên đã phát huy trên thực tế. Nếu như trước
đây, chỉ có một số dân tộc như Chăm, Khmer,... có sẵn tiếng nói và chữ
viết riêng, còn lại hầu hết các dân tộc thiểu số khác chỉ có tiếng nói
mà chưa có chữ viết riêng của mình thì đến nay việc La-tinh hóa cách
phát âm ngôn ngữ của một số dân tộc chỉ có tiếng nói, không có chữ viết
như H’Mông, Ê Đê, Jrai... và hệ thống hóa ký tự của người Tày, Dao,
Thái... đã được triển khai. Qua đó, các tiếng nói của đồng bào dân tộc
thiểu số được bảo tồn và truyền lại cho thế hệ mai sau.
Số
liệu thống kê cho thấy, đến năm 2020, tại Việt Nam, hơn 90% hộ gia đình
vùng đồng bào dân tộc thiểu số được nghe các chương trình Đài Tiếng nói
Việt Nam và trên 80% số hộ được xem truyền hình. Các chương trình phát
thanh và kênh truyền hình từ trung ương đến địa phương được phát sóng
với 26 thứ tiếng dân tộc đã đến được với bản làng xa xôi.
Chỉ
tính riêng Đài Tiếng nói Việt Nam đã có 6 chương trình tiếng Việt chuyên
sâu về đề tài dân tộc thiểu số; 13 chương trình phát thanh bằng tiếng
dân tộc thiểu số phủ sóng tại các vùng tập trung đông đồng bào dân tộc
ít người tại Tây Bắc, Đông Bắc, miền trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và
Tây Nam Bộ; hơn 400 chương trình phát thanh (giai đoạn từ 2011-2021) để
tuyên truyền cho đồng bào dân tộc thiểu số về Chương trình 135, cải
thiện sinh kế, nâng cao nhận thức của đồng bào về vấn đề quyền con
người...
Hiện nay, cả nước đã có 30 tỉnh triển khai với 700
trường học tiếng dân tộc thiểu số; phát hành 8 chương trình tiếng dân
tộc (Chăm, Khmer, Jrai, Bahnar, Ê Đê, H’Mông, M’Nông, Thái); và 6 bộ
sách giáo khoa tiếng dân tộc (Chăm, Khmer, Jrai, Bahnar, H’Mông, Ê Đê);
23 tỉnh, thành phố thực hiện dạy học tiếng dân tộc trong trường phổ
thông... Trong đó, nổi bật là việc dạy tiếng Khmer (có khoảng 1,3 triệu
người Khmer, chiếm 7% dân số). Việc truyền bá thông tin bằng tiếng dân
tộc, đưa tiếng dân tộc vào chương trình giáo dục vừa giúp cho đồng bào
dân tộc thiểu số duy trì nét văn hóa của mình, vừa bảo đảm sự bình đẳng
trong việc hưởng thụ các giá trị văn hóa và giáo dục.
Bên cạnh
đó, phong trào “cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc, cùng nói tiếng dân tộc”
được triển khai rộng rãi. Điều 21 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Di sản văn hóa ban hành năm 2009 đề ra yêu cầu: “Dạy tiếng nói, chữ
viết của dân tộc thiểu số cho cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ,
chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân công tác ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số theo yêu cầu công việc”.
Thực tế cho thấy việc hiểu
được ngôn ngữ, tiếng nói của người dân tộc thiểu số vừa giúp cho công
tác phát hiện, nắm tình hình địa bàn, kịp thời đấu tranh với các hiện
tượng tiêu cực, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã
hội; vừa hỗ trợ công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động để đồng bào
dân tộc thiểu số hiểu đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về dân tộc, tôn giáo trong tình hình mới.
Ngoài ra, để bảo đảm
quyền của người dân tộc thiểu số được sử dụng tiếng nói của mình khi
tham gia tố tụng, pháp luật Việt Nam quy định về việc cho phép người
tham gia tố tụng dân sự, hình sự và hành chính có quyền dùng tiếng nói
và chữ viết của dân tộc mình. Theo đó trong các trường hợp cần thiết,
Tòa án sẽ mời người phiên dịch đến để hỗ trợ. Quy định này vừa mang ý
nghĩa chính trị-xã hội, thể hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc, vừa bảo
đảm công tác xét xử được chính xác, minh bạch.
Thời gian tới, để
tiếp tục phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với việc lợi dụng vấn đề dân tộc
thực hiện âm mưu chống phá của các tổ chức, đối tượng phản động, thù
địch, mỗi người dân chúng ta cần không ngừng tăng cường khối đại đoàn
kết dân tộc.
Bên cạnh việc chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số, các cấp ủy đảng và chính quyền cần tập trung xây
dựng và bảo đảm đội ngũ cán bộ công tác tại các vùng có đồng bào dân
tộc thiểu số am hiểu ngôn ngữ, tiếng nói và văn hóa của đồng bào, từ đó
góp phần tạo sự đồng thuận, niềm tin của người dân.
Chú trọng
làm tốt công tác tuyên truyền đường đối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về vấn đề dân tộc, không để đồng bào bị các đối tượng xấu
lôi kéo, lợi dụng và kích động. Đồng thời tiếp tục hoàn thiện chính sách
dân tộc, từng bước nâng cao đời sống kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát
triển vùng, miền; đồng thời thực hiện hiệu quả nhiệm vụ bảo tồn, phát
triển văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số./.
Mai Chi (nhandan.vn)