Cụ Nguyễn Văn Tố sinh năm 1889 ở Hà Nội, trong một gia đình nhà nho yêu
nước. Xuất thân từ tầng lớp trí thức, lấy con đường hoạt động văn hóa
làm sự nghiệp, cụ được nhiều người biết đến bởi sự đức độ, tài năng với
nhiều công trình nghiên cứu khoa học rất có giá trị về lịch sử, văn hóa
nước nhà.
Vừa uyên thâm Hán học, vừa tinh thông Tây học, những bài biên khảo và
nghiên cứu lịch sử, văn hóa của cụ rất phong phú, đa dạng, thể hiện
lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc sâu sắc. Ðặc
biệt, cụ luôn đau đáu với việc khảo cứu lịch sử nước nhà với mong muốn
mau chóng viết nên "một quyển Nam sử thật có giá trị".
Trước Cách mạng Tháng Tám, cụ là người đứng đầu nhiều tổ
chức khoa học, nhiều phong trào truyền bá tri thức đương thời như Hội
những người bạn của Viện Viễn đông Bác cổ, Hội Trí tri, Hội Truyền bá
Quốc ngữ... Trong đó, Truyền bá Quốc ngữ là phong trào có nhiều ảnh
hưởng đối với xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, góp phần giải phóng cho gần
70 nghìn người thoát nạn mù chữ, là nền tảng vững chắc giúp cho người
dân giác ngộ cách mạng vùng lên tranh đấu. Cũng chính từ kinh nghiệm
phong phú ban đầu của truyền bá Quốc ngữ, sau này dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã lập nên kỳ tích
trong việc xóa nạn mù chữ.
Là người thông tỏ Tây học, nhưng cụ luôn giữ cho mình một cốt cách
dân tộc. Trong ký ức của nhiều người, cụ Nguyễn Văn Tố quanh năm khăn
xếp, áo the, hết lòng chăm lo xóa nạn mù chữ và nâng cao dân trí cho
những người lao động. Với lòng yêu nước nồng nàn, bản lĩnh kiên cường và
tấm lòng trung chính, cụ đã đến với cách mạng như một lẽ tự nhiên.
Mùa thu năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công. Ðể lo việc nước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời cụ Nguyễn Văn Tố tham gia Chính phủ. Cụ nhậm
chức Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội trong Chính phủ lâm thời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ một học giả, một nhân sĩ yêu nước, rất nhanh
chóng, cụ đã hòa mình vào dòng chảy của cách mạng, dồn tâm lực cho việc
cùng nhân dân diệt "giặc đói" và "giặc dốt". Trên cương vị Bộ trưởng, cụ
Nguyễn Văn Tố đã cùng Chính phủ thông qua một bản Kế hoạch rõ ràng về
việc cứu tế, đồng thời tổ chức một cuộc vận động quyên góp gạo, kịp thời
hỗ trợ những người dân nghèo vượt qua nạn đói.
Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam, cụ đã được cử tri
tỉnh Nam Ðịnh bầu làm đại biểu Quốc hội. Ngày 2/3/1946, Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa I đã họp tại Nhà hát Lớn, thành phố Hà Nội. Mặc dù kỳ họp chỉ diễn
ra trong bốn giờ đồng hồ, nhưng Quốc hội đã hoàn thành khối lượng công việc
lớn, trọng đại, trong đó có việc bầu ra Ban Thường trực Quốc hội. Cụ Nguyễn
Văn Tố được bầu giữ chức Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, chức vụ tương đương
với Chủ tịch Quốc hội sau này. Quyền hạn của Ban Thường trực Quốc hội vào lúc đó
được Quốc hội định ra là rất quan trọng, như: góp ý kiến với Chính phủ; phê
bình Chính phủ; triệu tập QH trong những trường hợp nhất định.
Trên cương vị Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, tuy thời gian chỉ hơn tám
tháng, nhưng cụ Nguyễn Văn Tố đã cùng với tập thể Ban Thường trực Quốc hội có
nhiều đóng góp với cách mạng Việt Nam nói chung và Quốc hội Việt Nam nói
riêng, đặt nền móng cho tổ chức và hoạt động của mô hình Ủy ban Thường
vụ Quốc hội sau này.
Về công tác lập hiến, lập pháp, Ban Thường trực Quốc hội dưới sự lãnh đạo
của cụ đã cho ý kiến vào nhiều dự án quan trọng trình Quốc hội như Dự án Luật
Lao động, Dự thảo Hiến pháp. Ðặc biệt, bản Hiến pháp năm 1946 là Hiến
pháp đầu tiên trong cõi Á Ðông, được thông qua với sự nhất trí gần như
tuyệt đối. Bản Hiến pháp góp phần tuyên bố với thế giới: nước Việt Nam
đã độc lập, dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do.
Tham gia vào công cuộc kiến thiết đất nước, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội Nguyễn Văn Tố đã dành nhiều thời gian chỉ đạo các tiểu ban của Quốc hội cho ý
kiến về các dự án sắc lệnh của Chính phủ; xét 98 dự án Sắc lệnh, những
Sắc lệnh đó đều có tính cách các đạo luật; thông qua nhiều nghị quyết về
nội trị, ngoại giao. Ðồng thời tích cực phối hợp với các bộ, ngành
trong việc hoàn thành các nhiệm vụ cứu đói, bình dân học vụ, phòng,
chống thiên tai…
Về công tác đối ngoại, cụ Nguyễn Văn Tố đã cùng Ban Thường trực Quốc hội,
Chính phủ thi hành nhiều phương sách thích hợp để tỏ cho nhân dân thế
giới biết và ủng hộ về khát vọng độc lập, hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Trong đó, điển hình là việc Ban Thường trực Quốc hội đã cử một phái đoàn của
QH Việt Nam sang thăm Cộng hòa Pháp vào năm 1946; cùng với Chính phủ
thông qua chủ trương ký Hiệp định sơ bộ để "giảng hòa với Pháp nhằm
giành được giây phút nghỉ ngơi để sửa soạn cuộc chiến đấu mới...".
Với vai trò là Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, cụ đã điều hành những phiên
họp quan trọng của Quốc hội tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa I vào tháng 11/1946
với sự nghiêm túc và tinh thần dân chủ cao độ trong Quốc hội. Tại phiên chất
vấn đầu tiên trong lịch sử của Quốc hội Việt Nam, cụ cũng đã trực tiếp trả lời
chất vấn của các đại biểu Quốc hội về hoạt động của Ban Thường trực Quốc hội, trong
đó có vấn đề liên quan đến Quốc kỳ, được nhiều người dân quan tâm.
Phát biểu trước Quốc hội, cụ đã thể hiện một niềm tin sắt đá: "Nước ta, với
sự đồng tâm nhất trí của toàn thể đồng bào, sẽ giành được độc lập và đi
tới vinh quang, hạnh phúc".
Ngày 3/11/1946, tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I, một lần nữa cụ lại
được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham gia Chính phủ và giữ chức Bộ trưởng
không bộ. Chức Trưởng Ban Thường trực QH được chuyển cho cụ Bùi Bằng
Ðoàn.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cụ cùng các thành viên của Chính phủ
rời Thủ đô Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc để tiếp tục lãnh đạo toàn dân
kháng chiến. Ngày 7/10/1947, thực dân Pháp tiến hành một cuộc tập kích
bằng không quân đổ bộ xuống Bắc Kạn với hy vọng tiêu diệt cơ quan đầu
não của cuộc kháng chiến, cụ Nguyễn Văn Tố không may sa vào tay giặc.
Với tinh thần bất khuất trước kẻ thù, cụ bị chúng tra tấn dã man và sát
hại khi sự nghiệp cách mạng của cụ đang còn dang dở. Trong lễ truy điệu
vị Bộ trưởng, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội Nguyễn Văn Tố, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khóc cụ bằng những lời điếu thống thiết: "Cụ dù hy sinh, tinh
thần cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệt. Với cụ, dân tộc mất một người chí
sĩ, thế giới mất một người danh nho"!
Cụ Nguyễn Văn Tố đã ngã xuống vì cách mạng, vì nước cộng hòa non trẻ,
nhưng những cống hiến của cụ mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ
người dân Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của cụ đã cống hiến trọn vẹn
Ðức - Trí - Dũng cho cách mạng, cho khoa học và văn hóa nước nhà.
Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của cụ Nguyễn Văn Tố là một dịp để chúng ta
cùng nhau ôn lại cuộc đời, sự nghiệp vẻ vang và những cống hiến to lớn
của cụ. Cuộc hội thảo hôm nay vừa có ý nghĩa tưởng niệm, tôn vinh và tri
ân, vừa có ý nghĩa giáo dục về truyền thống cách mạng, truyền thống yêu
nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân
ta. Từ đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người dân đối với sự
nghiệp đổi mới đất nước và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Ðể đạt mục tiêu nêu trên, tôi trân trọng đề nghị các đại biểu tham dự
hội thảo hôm nay tập trung tham luận về những đóng góp lớn lao, nổi bật
của cụ Nguyễn Văn Tố cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục của nước nhà với
vai trò là một tấm gương tiêu biểu của trí thức Việt Nam. Những tâm
nguyện mà cụ Nguyễn Văn Tố đặt ra về phát triển khoa học, truyền bá tri
thức, chấn hưng dân trí hiện vẫn đang là những vấn đề lớn đặt ra cho
chúng ta hôm nay. Cụ Nguyễn Văn Tố đã có những đóng góp to lớn cho cách
mạng Việt Nam với vai trò là một vị Bộ trưởng trong Chính phủ của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và là người đầu tiên đứng đầu Quốc hội của nước Việt
Nam độc lập. Những phẩm chất đạo đức cách mạng cao quý, tư tưởng của cụ
về một nhà nước dân chủ, đoàn kết, trọng dân, thương dân vẫn mãi còn
nguyên giá trị cho đến ngày nay./.
Uông Chu Lưu
Ủy viên Trung ưng Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội