Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù bận nhiều công việc của đất nước, vẫn trực tiếp
gửi thư, tặng quà, đi thăm các thương binh, gia đình liệt sĩ, vẫn thắp
“một nén hương thành” viếng các anh hùng liệt sĩ ở nghĩa trang, “thay
mặt Chính phủ, và nhân dân toàn quốc nghiêng mình trước linh hồn các
chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh vì Tổ quốc”.
Không quốc gia nào trên thế giới không có đài tưởng niệm, nhất là để tưởng niệm những người hy sinh vì đất nước, dân tộc.
Nước Nga có mộ liệt sĩ vô danh ở Thủ đô
Moscow được xây dựng từ năm 1966. Nước Anh, nước Pháp đều có mộ liệt sĩ
vô danh đặt ở Thủ đô London, Thủ đô Paris. Nước Mỹ từ năm 1921 có mộ
liệt sĩ vô danh nằm ở nghĩa trang quốc gia Arlington, bang Virginia. Ai
Cập có đài tưởng niệm liệt sĩ vô danh Cairo và Hy Lạp có mộ liệt sĩ vô
danh ở quảng trường Syntama, trung tâm Thủ đô Athens…
Nhưng có lẽ không đâu như ở Việt Nam,
đến năm 2016 cả nước có 9.637 công trình ghi công liệt sĩ, trong đó có
1.750 đài tưởng niệm liệt sĩ.
Quốc tế có nhiều ngày lễ trong năm, như
Ngày quốc tế kỷ niệm tưởng nhớ nạn nhân của nạn diệt chủng Đức quốc xã
(27/1), Ngày tưởng niệm tất cả nạn nhân của chiến tranh hóa học (29/4),
Ngày quốc tế hòa bình (21/9), Ngày quốc tế người khuyết tật (3/12)…
Nhưng trong hơn 130 ngày lễ quốc tế không thấy có Ngày Thương binh-liệt
sĩ (27/7) như đã và đang có ở Việt Nam suốt 70 năm qua.
Ngày 27/7 ở Việt Nam có nguồn gốc sâu xa
từ truyền thống và đạo lý hàng nghìn năm của dân tộc: Luôn tôn thờ các
anh hùng hào kiệt và những người hy sinh vì nước, vì dân.
Trong thời hiện đại, ngay khi nền tự do
độc lập của dân tộc vừa giành lại được, toàn dân Việt Nam đã phải nêu
cao ý chí quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, thực hiện “Quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh”; những tổ chức Hội giúp binh sĩ bị nạn, Hội giúp binh sĩ bị
thương hình thành ở một số địa phương để vận động đồng bào hăng hái giúp
đỡ các chiến sĩ bị thương.
Đáp ứng yêu cầu thực tế đó, Chính phủ
Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành chế độ hưu bổng thương tật và tiền
tuất tử sĩ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn ngày kỷ niệm thương
binh-liệt sĩ và thành lập Ban Vận động tổ chức Ngày Thương binh toàn
quốc… Ngày 27/7/1947, tại chiến khu Việt Bắc, lần đầu tiên ngày kỷ niệm
ấy đã đi vào lịch sử.
Từ đó đến nay, cứ đến dịp 27/7 cả nước
từ Trung ương đến các địa phương, từ những người lãnh đạo cao nhất của
Đảng, Chính phủ, Nhà nước, đến mỗi người dân, đều có nhiều hoạt động
chăm lo cho thương binh, liệt sĩ - những người đã hy sinh gia đình, hy
sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ
quốc, lợi ích của đồng bào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù bận nhiều công
việc của đất nước những năm kháng chiến trường kỳ, hay khi đất nước bị
chia cắt, vẫn trực tiếp gửi thư, tặng quà, đi thăm các thương binh, gia
đình liệt sĩ, vẫn thắp “một nén hương thành” viếng các anh hùng liệt sĩ ở
nghĩa trang, “thay mặt Chính phủ, và nhân dân toàn quốc nghiêng mình
trước linh hồn các chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh vì Tổ quốc”.
Người nhắc nhở: “Ăn quả phải nhớ người
trồng cây. Trong cuộc tưng bừng vui vẻ hôm nay, chúng ta phải nhớ đến
những anh hùng, liệt sĩ của Đảng ta, của dân ta” và “Phải coi việc giúp
đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ là nghĩa vụ chứ không phải
là việc làm phúc”.
Ngày 27/7 là “dịp để đồng bào ta tỏ lòng
hiếu nghĩa, bác ái, thương mến thương binh”, làm “một việc nghĩa, mọi
người tự động làm, tuyệt đối không cưỡng bức”. Người kêu gọi “nhường
cơm, sẻ áo” và đề nghị: “Các cơ quan, các bộ đội, các trường học, các
đoàn thể và toàn thể đồng bào cả nước đều nhịn ăn một bữa”, phải “thiết
thực báo cáo kết quả”, phải “phân phối cho khắp”; tất cả “các giới, các
tổ chức hăng hái tham gia, đặc biệt là đoàn thể phụ nữ, thanh niên và
nhi đồng cần phải ra sức tuyên truyền, giải thích và giúp việc”.
Là người khởi xướng phong trào, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thực hiện trước những hoạt động thiết thực làm gương cho
mọi người theo. Không chỉ gửi thư thăm hỏi, năm nào Người cũng gửi quà
cho thương binh và gia đình liệt sĩ: Năm 1947 gửi chiếc áo lụa vừa được
chị em phụ nữ biếu, cùng 1 tháng lương, 1 bữa ăn của mình và của các
nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là 1.127 đồng; năm 1949, gửi một số
khăn mặt, áo quần, 1 tháng lương là 1.000 đồng; năm 1951 tặng một số bộ
quần áo; năm 1952, gửi 1 tháng lương, 2 phiếu công trái quốc gia; năm
1953, gửi 1 tháng lương và 30 chiếc khăn tay; năm 1954, gửi 1 tháng
lương 45.000 đồng và 30.000 đồng do Việt kiều vừa tặng…
|
Bệnh viện Quân y 175 khám bệnh, tặng quà thương binh, gia đình liệt sĩ tỉnh Tiền Giang. Ảnh: Báo QĐND
|
Tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc nào cũng dành sự chăm sóc cụ thể,
thiết thực cho thương binh, gia đình liệt sĩ. Cho đến trước lúc đi xa,
Người căn dặn toàn Đảng, toàn dân công việc sau chiến tranh “trước tiên
là chỉnh đốn lại Đảng” và “đầu tiên là công việc đối với con người” là
thương binh, liệt sĩ và các gia đình họ.
Trong Di chúc (bản viết tháng 5/1968), Bác dặn kỹ từng người, từng đối tượng, từng công việc cụ thể:
Đối với thương binh, “Đảng, Chính phủ và
đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng
thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần
dần ‘tự lực cánh sinh’”.
Đối với các liệt sĩ “mỗi địa phương
(thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh
anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho
nhân dân ta”.
Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh
và liệt sĩ “chính quyền địa phương… phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn
thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
Thương binh và liệt sĩ có ở khắp mọi
miền trên đất nước Việt Nam, từ đất liền ra hải đảo. Nghĩa trang liệt sĩ
phần nhiều ở cấp huyện và không ít có tới cấp xã là điều đặc trưng và
thiết thực của đạo lý dân tộc, con người Việt Nam. Công tác thương binh,
liệt sĩ ở các địa phương cả nước đều được chú trọng theo chủ trương xã
hội hóa ngày càng có hiệu quả, nên ai cũng đã có khả năng “tự lực cánh
sinh” và không ai bị đói rét.
Những nghĩa trang đặc biệt của quốc gia
và các tỉnh, thành phố đã được xây dựng khang trang, đủ lớn và đúng tầm.
Nghĩa trang ở một số địa phương đã có vườn hoa rộng, bia kỷ niệm đẹp.
Nhưng vẫn còn nhiều hơn những huyện và xã rất khó khăn cả về quy hoạch
và xây dựng, chưa có đủ vườn hoa và bia kỷ niệm. Thậm chí đâu đó còn có
cả những “khuất tất” trong di dời mộ và dựng bia…
Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung
nói: “Đau lòng nhất là còn 300.000 liệt sĩ chưa biết danh tính, 200.000
liệt sĩ chưa về với đất mẹ”. Đặt những con số đó bên cạnh hiện có 4.810
nhà bia ghi tên liệt sĩ, 3.077 nghĩa trang liệt sĩ, càng thấy việc Bác
dặn “mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ
niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ” là rất cụ thể, thiết thực
và căn cơ, càng thấy còn nhiều việc phải làm; phải phấn đấu nỗ lực
nhiều nữa cho mục đích cao cả “đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho
nhân dân”./.
Theo chinhphu.vn