Vấn đề cốt lõi của đồng bằng sông Cửu Long vẫn là định vị
vùng, bố trí không gian và huy động các nguồn lực phát triển với mục
tiêu đưa vùng này thành nơi đáng sống đối với người dân, và là điểm đến
hấp dẫn đối với du khách và nhà đầu tư cùng với các cộng đồng dân cư
chung sống thịnh vượng và năng động.
NƯỚC LÀ CỐT LÕI, CON NGƯỜI LÀ TRUNG TÂM
Yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển vùng là lấy “con người”
làm trung tâm; chọn “đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ” là chìa khóa
phát triển, “văn hóa” làm nền tảng, coi “tài nguyên nước” là cốt lõi,
chuyển đổi mô hình sinh kế theo hướng chủ động thích ứng với biến đổi
khí hậu, nước biển dâng, các tác động ngoại cảnh cũng như ứng phó, quản
trị tốt rủi ro các yếu tố tiêu cực nội vùng.
Nhận thức rõ các thách thức mà vùng châu thổ này đang đối mặt ở nhiều
cấp độ khác nhau, từ nội vùng, liên vùng, khu vực hạ lưu Mê Công và cấp
độ tác động toàn cầu do thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu. Vấn đề
cốt lõi-tài nguyên nước của đồng bằng cũng đang chịu nhiều áp lực to
lớn. Tác động tiêu cực của vấn đề nước xuyên biên giới. Các quốc gia đầu
nguồn xây đập thủy điện “treo các túi nước trên đầu Mê Công”, “trích
máu dòng sông” bằng các dự án chuyển nước dòng chính làm thay đổi dòng
chảy, giảm lượng phù sa, nguồn lợi thủy sản, tăng xâm nhập mặn, sạt lở,
tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội và môi trường của vùng
hạ lưu.
Thách thức còn bị nhân lên từ hoạt động kinh tế với cường độ cao ở
nội vùng gây nhiều hệ lụy làm mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài
nguyên nước và cát, trong khi quản lý Nhà nước “thiếu phối hợp, thừa
chồng chéo”. Các thách thức đó không riêng lẻ mà đang tích lũy, liên
hoàn, đòi hỏi sự nhận diện hệ thống, có chiến lược ứng phó dài hạn, sự
tiếp cận đa ngành và phối hợp giải quyết liên ngành.
Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất lúa ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh đó, vùng này cũng đang đứng trước cơ hội chuyển đổi sang mô
hình phát triển mới theo hướng gia tăng giá trị, phát huy có hiệu quả
các nguồn lực về con người, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số. Mới đây Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 2/4/2022 của Bộ Chính
trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
được ban hành trước bối cảnh và yêu cầu đó. Thực tiễn đời sống sinh động
cùng với tư tưởng chỉ đạo, tầm nhìn chiến lược đã được kết tinh trong
Nghị quyết, cần thiết phải được triển khai, quán triệt đến tận cơ sở, để
Nghị quyết sớm đi vào cuộc sống.
BA CÂU HỎI LỚN VÀ HÀNH ĐỘNG
Ba câu hỏi lớn đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt ra, cần được
triển khai, quán triệt, chỉ đạo hành động, tạo chuyển biến. Một là, vì
sao trong lúc này Bộ Chính trị lại ban hành Nghị quyết phát triển vùng
đồng bằng sông Cửu Long tầm nhìn đến năm 2045? Hai là, những ý tưởng
mới, tinh thần mới, nội dung mới của nghị quyết là gì? Và thứ ba là, cần
làm gì và làm như thế nào để tổ chức thực hiện hiệu quả nhất các mục
tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu?
Bộ Chính trị đã thống nhất đánh giá, Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày
20/1/2003 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh - quốc phòng vùng đồng bằng sông
Cửu Long thời kỳ 2001-2010 (gọi tắt là Nghị quyết 21) đã được các bộ,
ngành Trung ương và địa phương trong vùng triển khai, thực hiện hiệu
quả; phát huy được tiềm năng, lợi thế, tác động tích cực, mạnh mẽ đến sự
phát triển chung của vùng và cả nước.
Mô hình lúa-tôm được xem là mô hình bền
vững ở vùng chịu ảnh hưởng mặn. (Trong ảnh: Nông dân huyện Thới Bình Cà
Mau thu hoạch tôm bên ruộng lúa)
Các mục tiêu của Nghị quyết 21 đã cơ bản hoàn thành, giai đoạn mới,
yêu cầu phát triển mới, cách tiếp cận mới, cần thiết phải có Nghị quyết
mới cho vùng kinh tế, xã hội quan trọng này của đất nước. Yêu cầu phát
triển mới với tầm nhìn dài hạn, rất cần tư duy kiến tạo, cách tiếp cận
tổng hợp, thích ứng thuận theo tự nhiên, yêu cầu phải chuyển đổi mô hình
phát triển vùng, định hướng bố trí không gian, huy động nguồn lực, tăng
cường liên kết vùng và liên vùng với thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó
“Trục xương sống” của vùng vẫn là cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi và
chất lượng nguồn nhân lực. Ba khâu then chốt này vẫn cần được coi là
chiến lược quan trọng nhất của quy hoạch vùng.
Hiện chúng ta đang ở thời điểm tái cấu trúc, định hình lại cách thức
phát triển, tính toán nguồn lực quốc gia để huy động, chuẩn bị các kịch
bản phát triển sau đại dịch COVID-19. Cùng với định hướng huy động, bố
trí nguồn lực, cần xác định rõ đâu là nhiệm vụ trọng tâm, địa chỉ chịu
trách nhiệm từng đầu việc, thời hạn hoàn thành, nhằm đảm bảo tính khả
thi, hiệu quả. Theo đó, cần ưu tiên tập trung năm nhóm giải pháp sau:
Một là, các giải pháp về cơ chế, chính sách đảm bảo liên kết vùng.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế điều phối vùng, tăng cường vai trò của các
địa phương trong Hội đồng điều phối vùng. Xây dựng cơ chế, chính sách
nhằm tạo sự liên kết giữa các địa phương, tạo nên sức mạnh tổng hợp,
định vị lợi thế cạnh tranh, phát huy sức mạnh tiềm năng. Nghiên cứu, ban
hành cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp,
liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm đối với các nhóm sản phẩm
chủ lực của vùng.
Hai là, tổ chức huy động nguồn lực đầu tư phát triển, ưu tiên bố trí
vốn đầu tư công, thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách, nhất là vốn
trong khối tư nhân; những việc, lĩnh vực mà tư nhân có thể thực hiện cần
được tạo điều kiện cho tư nhân. Thúc đẩy hình thành các quỹ đầu tư, các
cơ chế huy động vốn khuyến khích cho vay, tăng cường năng lực cho các
thành phần kinh tế. Với nguồn lực có hạn, việc lựa chọn mục tiêu trọng
tâm, lựa chọn khâu đột phá, khắc phục tình trạng dàn trải, phân tán,
lãng phí, kém hiệu quả trong đầu tư là yêu cầu quan trọng hàng đầu.
Ba là, đầu tư và phát triển hạ tầng theo quy hoạch và tổ chức không
gian lãnh thổ, giải quyết các “điểm nghẽn” phát triển trong lĩnh vực
giao thông vận tải, thích ứng biến đổi khí hậu phù hợp với quy hoạch
vùng được phê duyệt. Thực hiện nhiệm vụ cấp bách về chống sạt lở, sụt
lún nghiêm trọng tại một số khu vực bờ biển, bờ sông. Các dự án đầu tư
và phát triển hạ tầng phải đảm bảo thống nhất, tính liên vùng, liên
ngành, có trọng tâm, trọng điểm và có lộ trình hợp lý.
Bốn là, nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực, đổi mới sáng tạo
và khoa học, công nghệ cần được xem là chìa khóa thành công trong phát
triển vùng. Theo đó, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực theo hướng phục
vụ phát triển các ngành lợi thế của vùng và tăng cường đào tạo, thu hút
số lao động trẻ có trình độ chuyên môn, tay nghề, trên cơ sở gắn kết
hoạt động của các trung tâm đầu mối với hệ thống các viện nghiên cứu và
trường đại học trong vùng cũng như ngoài vùng, cả các tổ chức quốc tế và
các quỹ có quan tâm và ưu tiên đầu tư cho vùng.
Năm là, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh địa bàn Tây Nam Bộ, giữ
vững “tuyến biên giới mềm” đoàn kết, hợp tác, cùng phát triển, gắn kết
với các mục tiêu phát triển con người, kinh tế, xã hội và môi trường.
Tầm nhìn dài hạn, mục tiêu phát triển đồng bằng sông Cửu Long trở
thành vùng đất an toàn, trù phú, thịnh vượng trong tương lai đến nhanh
hay chậm đang đòi hỏi những nỗ lực vượt qua các thách thức, tận dụng
thời cơ, hành động đột phá và không hối tiếc. Diện mạo tương lai đồng
bằng đã được định hình rõ, cần những gam màu sáng bằng tư duy, cách tiếp
cận và hành động thực tế. Đặc biệt là Nghị quyết 13-NQ/TW đã từng bước
soi đường, kỳ vọng đưa vùng châu thổ Cửu Long sẽ cất cánh trong tương
lai./.
Đồng bằng sông Cửu Long hiện đang có dự án “Nâng cao khả năng chống chịu, phát triển khu định cư con người và sinh thái gắn kết, bền vững thông qua các can thiệp hạ tầng quy mô nhỏ ở các vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long” được thực hiện. Đây là dự án đầu tiên của vùng, triển khai tại Trà Vinh và Bạc Liêu có kết hợp can thiệp “cứng và mềm” nhằm thúc đẩy khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của vùng. Bên cạnh việc triển khai các can thiệp “cứng” là các hạ tầng bảo vệ và sửdụng tài nguyên nước hiệu quả, bền vững, dự án còn thực hiện các can thiệp “mềm” thông qua tăng cường năng lực cho cán bộ quản lý các cấp và áp dụng công nghệ hạ tầng hiện đại.
|