(TG)-Theo thống kê của Bộ Y tế, HIV/AIDS vẫn nằm trong năm nguyên nhân hàng
đầu gây gánh nặng bệnh tật và tử vong ở Việt Nam. Mặc dù số người nhiễm
mới HIV hàng năm đã giảm nhưng mỗi năm vẫn còn khoảng 12 ngàn người
nhiễm mới HIV được phát hiện.
HIV/AIDS vẫn là đại dịch nguy hiểm nhất
Đại dịch HIV đang là vấn đề toàn cầu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng không
chỉ sức khoẻ, tính mạng của con người mà còn tác động trực tiếp đến sự
phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
Theo báo cáo của Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS
(UNAIDS) tính đến thời điểm năm 2013, thế giới có khoảng 35,3 triệu
người nhiễm HIV đang còn sống và mỗi năm vẫn có hơn 2 triệu người nhiễm
mới HIV và cũng có gần 2 triệu người tử vong do AIDS mỗi năm.
Tại Việt Nam đến cuối tháng 6/2015 cả nước có khoảng 227.000 người nhiễm
HIV còn sống và có gần 75.000 người đã tử vong do AIDS được báo cáo.
Theo thống kê của Bộ Y tế, HIV/AIDS vẫn nằm trong năm nguyên nhân hàng
đầu gây gánh nặng bệnh tật và tử vong ở Việt Nam. Mặc dù số người nhiễm
mới HIV hàng năm đã giảm nhưng mỗi năm vẫn còn khoảng 12 ngàn người
nhiễm mới HIV được phát hiện.
Người nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam tập trung chủ yếu trong độ tuổi lao
động và nữ giới ở độ tuổi sinh đẻ, do vậy tác động rất lớn đến sức khỏe,
kinh tế, trật tự an ninh xã hội và tương lai của quốc gia.
Thuốc kháng virus - cơ hội kết thúc dịch AIDS ở Việt Nam
Tình trạng sức khỏe của người nhiễm HIV/AIDS phụ thuộc chủ yếu vào sự
“cân bằng” giữa sức đề kháng của cơ thể và nồng độ HIV trong máu. Cho
đến nay, thế giới vẫn chưa tìm ra thuốc chữa khỏi hoàn toàn HIV, tuy
nhiên việc ra đời của thuốc kháng virus (ARV) trong hai chục năm qua đã
được coi là “cứu tinh,” là cơ hội sống khỏe mạnh cho người nhiễm HIV
cũng như công tác phòng, chống HIV/AIDS của mỗi quốc gia.
Điều trị bằng thuốc kháng HIV (thuốc ARV) được coi như là điều trị đặc
hiệu bởi vì điều trị bằng ARV làm ức chế sự nhân lên của virus do đó duy
trì được lượng virus thấp nhất trong máu, thông qua đó cũng duy trì
được tình trạng bình thường của hệ miễn dịch. Khi hệ miễn dịch chưa bị
suy giảm thì không có nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội hoặc chỉ
mắc ở mức độ nhẹ.
Ngay cả khi người nhiễm HIV ở giai đoạn AIDS, hệ miễn dịch của người
nhiễm HIV đã bị suy giảm, nhờ ARV kiềm chế sự nhân lên của HIV mà hệ
miễn được phục hồi trở lại, làm giảm khả năng mắc các bệnh nhiễm trùng
cơ hội cho người nhiễm HIV. Nhờ vậy, giúp người nhiễm HIV tiếp tục sống
khỏe mạnh, lâu dài như mọi người.
Tổ chức Y tế Thế giới đã có các nghiên cứu chỉ ra rằng người nhiễm HIV
điều trị ARV sớm và duy trì điều trị tốt cũng có tuổi thọ không thua kém
người không nhiễm HIV. Việc điều trị bằng ARV kịp thời còn giúp cải
thiện chất lượng sống cho người bệnh. Khi người nhiễm HIV khỏe mạnh, họ
có khả năng lao động và làm việc như người không nhiễm HIV và tự tin
sống hòa nhập với cộng đồng.
Điều trị ARV kịp thời sẽ giảm nguy cơ tiến triển AIDS (mắc các nhiễm
trùng cơ hội) và tử vong ở người nhiễm HIV. Đặc biệt là giảm nguy cơ làm
bệnh lao bùng phát, do vậy giảm các chi phí do nằm viện và chăm sóc y
tế cho bản thân người nhiễm HIV và gia đình, xã hội.
Do điều trị bằng ARV làm ức chế sự nhân lên của HIV và kìm hãm lượng HIV
trong máu ở mức thấp, nên làm giảm khả năng lây truyền HIV từ người
nhiễm HIV sang vợ/chồng hoặc bạn tình của họ và giảm lây truyền HIV từ
mẹ sang con.
Với lợi ích to lớn của thuốc ARV nên Thế giới cũng như Việt Nam đã liên
tục mở rộng việc tiếp cận điều trị sớm cho người nhiễm HIV để tránh nguy
cơ tử vong và bệnh tật cho người nhiễm HIV, dự phòng lây nhiễm HIV ra
cộng đồng.
Việc tiếp cận sớm và tuân thủ điều trị ARV là một trong những giải pháp
quan trọng nhất để tiến tới mục tiêu kết thúc đại dịch HIV/AIDS và năm
2030 nghĩa là khi đó HIV/AIDS không còn là vấn đề sức khỏe đáng lo ngại
của mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng và mỗi gia đình và người dân.
Dịch HIV kháng thuốc ở Việt Nam có nguy cơ bùng phát nếu thiếu thuốc ARV
Mặc dù thuốc ARV có nhiều lợi ích, tuy nhiên để đạt được hiệu quả thì
nguyên tắc điều trị bằng thuốc ARV là liên tục suốt đời. Vì nếu không
uống thuốc đều đặn và liên tục, nồng độ thuốc trong máu có thể không đủ
để ức chế số lượng virus trong máu.
Đây là cơ hội cho virus nhân lên tạo ra đột biến làm cho virus kháng
thuốc và thuốc ARV đang dùng không còn tác dụng như mong muốn, khi đó
thuốc không thể tấn công ức chế được virus. Khi HIV đã kháng với một
thuốc nào đó, thì thuốc đó không còn hiệu quả và bạn phải chuyển sang
dùng thuốc khác. Lúc này virus đã kháng thuốc, các virus kháng thuốc sẽ
sinh sản ra nhiều bản sao virus kháng thuốc khác.
Điều nguy hiểm nhất khi HIV kháng thuốc ở hai khía cạnh: Thứ nhất với cá
nhân người nhiễm HIV khi thuốc ARV mất tác dụng trong việc kiểm soát số
lượng virus trong máu ở mức thấp và người nhiễm HIV sẽ nhanh chóng
chuyển sang giai đoạn AIDS và tử vong nếu không được điều trị bằng các
loại thuốc ARV mới khác tức những phác đồ bậc cao hơn, nếu điều trị bằng
các thuốc với phác đồ bậc cao hơn sẽ đắt hơn các thuốc hiện tại từ 5
đến 10 lần và hầu hết người nhiễm HIV là người nghèo nên chắc chắn không
có khả năng chi trả.
Thứ hai là khía cạnh xã hội, nhà nước cũng phải chi số tiền lớn gấp
nhiều lần nếu mua thuốc để chi trả cho người nhiễm HIV gây tốn kém về
kinh tế. HIV kháng thuốc lan tràn và khi đó dịch HIV trở nên bùng phát
không thể kiểm soát được.
Trong thời gian qua, 95% lượng thuốc ARV để điều trị cho người nhiễm HIV
đến từ khoản tài trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế. Hiện nay
nguồn tài trợ này đang rút đi và dự kiến sẽ kết thúc vào cuối năm 2017.
Ngay từ bây giờ nếu các cơ quan chức năng không có các giải pháp hữu
hiệu để bù đắp sự thiếu hụt về thuốc ARV thì người nhiễm HIV sẽ không
thể được điều trị hoặc không được điều trị liên tục, suốt đời. Nguy cơ
bùng phát dịch HIV kháng thuốc ở Việt Nam là một viễn cảnh có thể nhìn
thấy trước./.
Thế Minh