Quốc tế Cộng sản - tổ chức quốc tế của giai cấp vô sản - được thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1919 tại Mát-xcơ-va (Liên Xô). Theo V.I.Lênin: “Ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của Quốc tế Cộng sản, là ở chỗ nó đã bắt đầu thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất của C.Mác, khẩu hiệu tổng kết thực tiễn trong một thế kỷ của chủ nghĩa xã hội và của phong trào công nhân, khẩu hiệu biểu hiện bằng khái niệm: chuyên chính của giai cấp vô sản”(1). Đối với cách mạng An Nam (Việt Nam), Quốc tế Cộng sản có ảnh hưởng và đóng góp vô cùng quan trọng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam Quốc tế"(2). Người đã luận bàn về vai trò to lớn đó của Quốc tế Cộng sản với cách mạng An Nam trên các phương diện sau:
Một là, Quốc tế Cộng sản đã vạch ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn cho cách mạng An Nam
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, bằng trí tuệ uyên bác và sự nhạy cảm chính trị, Hồ Chí Minh đã lựa chọn Quốc tế cộng sản và tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Quốc tế Cộng sản bởi trên hết, Người tìm thấy mục tiêu mà mình theo đuổi trong đường lối của tổ chức cộng sản này. Đó là những quan điểm đúng đắn về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đây là ngọn cờ lý luận và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam.
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một loạt phong trào yêu nước của nhân dân ta đã nổi lên mạnh mẽ, liên tục chống đế quốc và phong kiến, song đều không giành được thắng lợi. Cách mạng Việt Nam đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Trước bối cảnh đó, sau những năm bôn ba tìm đường cứu nước, tháng 7 năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đã đọc được Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của VI.Lênin được thông qua tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản. Luận cương đã trình bày một cách ngắn gọn những nguyên tắc đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Trong đó, điểm 4 của Luận cương nhấn mạnh “…trọng tâm trong toàn bộ chính sách của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là cần phải đưa giai cấp vô sản và quần chúng lao động tất cả các dân tộc và các nước lại gần nhau trong cuộc đấu tranh cách mạng chung để lật đổ địa chủ và tư sản(3). Từ đó, Người nhận thấy “Đệ tam quốc tế chủ trương đập đổ tư bản làm thế giới cách mệnh” và “giúp dân thuộc địa chống lại đế quốc chủ nghĩa”. Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa Quốc tế Cộng sản với các tổ chức cộng sản khác đã được Người trình bày rõ trong cuốn Đường Cách mệnh. Có thể nói Luận cương đã đáp ứng và phù hợp những suy nghĩ, những tìm kiếm bấy lâu nay của Nguyễn Ái Quốc. Bằng việc tiếp cận với Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin và đi theo con đường cách mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối, đưa cách mạng Việt Nam bước sang một trang mới. Sau này nhớ lại thời điểm được đọc bản luận cương của V.I.Lênin, Người đã viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”(4).
Sau đó, đường lối dân tộc và thuộc địa tiếp tục được Quốc tế Cộng sản điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện trong suốt quá trình hoạt động của mình cho phù hợp với điều kiện các nước thuộc địa. Đặc biệt, với khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nuớc và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”(5) cho thấy V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản đã nhìn nhận vấn đề dân tộc và thuộc địa là việc liên kết chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hôi khoa học không chỉ với giai cấp công nhân mà còn đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc và đã tạo nên dòng thác cách mạng thống nhất trong phong trào công sản ở chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc.
Đại hội VI Quốc tế Cộng sản thông qua Đề cương “Phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa” đã vạch rõ tính chất, nhiệm vụ cách mạng các nước phương Đông trong giai đoạn đầu phải là cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới với những nhiệm vụ cơ bản là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc, lật đổ chính quyền phản động trong nước, thực hiên cải cách ruộng đất, tạo mọi điều kiên vững chắc từng bước đưa cách mạng tiến lên chủ nghĩa xã hội, không phải trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Về lực lượng lãnh đạo cách mạng ở các nước thuộc địa, Quốc tế Cộng sản chủ trương giai cấp vô sản các nước thuộc địa phải nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, phải có sách lược đoàn kết và hợp tác với các lực lượng dân tộc - cách mạng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc rồi tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa thông qua đội tiền phong của nó là đảng cộng sản.
Như vậy, “Đệ tam quốc tế dạy cho vô sản giai cấp trong thế giới - bất kỳ nòi giống nào, nghề nghiệp gì, tôn giáo gì - hợp sức làm cách mệnh”(6). Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, Quốc tế Cộng sản thực sự muốn giúp đỡ các dân tộc bị áp bức đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập, tự do. Từ đó, Người nhận thức được là trong thời đại ngày nay, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc tất phải đi theo con đường của V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản đã vạch ra là con đường cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc xem đó là con đường đúng đắn nhất, triệt để nhất như sau này Người viết trong tác phẩm Đường Cách mệnh: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(7).
Nguyễn Ái Quốc tìm đến được chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn con đường cứu nước dưới ánh sáng đường lối của Quốc tế Cộng sản và hoàn toàn đi theo con đường của Quốc tế Cộng sản đã đánh dấu bước ngoặt trong phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây, lịch sử cách mạng Việt Nam được chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, mà Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam đầu tiên tiếp nhận, đã coi như mặt trời chói lọi, soi sáng con đường đi tới thắng lợi cuối cùng là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đây được coi là một trong những cống hiến lịch sử của Quốc tế Cộng sản và có ảnh hưởng trực tiếp tới cách mạng Việt Nam.
Hai là, Quốc tế Cộng sản đã tích cực giúp đỡ, chuẩn bị các điều kiện và chỉ đạo thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Quốc tế Cộng sản luôn quan tâm đến việc xây dựng chính Đảng vô sản ở các nước thuộc địa nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Quốc tế Cộng sản đã có rất nhiều hoạt động tích cực chuẩn bị các điều kiện tiền đề cho sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam. Trước hết là công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế III vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Để truyền bá lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam Quốc tế Cộng sản đã thành lập những trung tâm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước phương Đông như Mátxcơva, Tasken - Bacu, Iếccút - Quảng Châu. Đồng thời, chỉ thị cho các đảng cộng sản tích cực in và gửi sang Việt Nam hàng nghìn bản in những tác phẩm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, trong số đó có Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen; các tác phẩm của V.I.Lênin…
Sau Đại hội VI các luận cương và nghị quyết của Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản (1928) và các văn kiện khác của Quốc tế Cộng sản đã được bí mật chuyển từ Pháp đến những cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu năm 1929. Nhờ sự giúp đỡ tích cực của Đảng Cộng sản Pháp và các đảng anh em khác dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản mà nhiều sách báo mácxít được in và chuyển về Việt Nam. Nhờ đó, người Việt Nam đã biết đến chủ nghĩa Mác - Lênin, và thấm sâu vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam, thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng phát triển mạnh mẽ, chuyển từ tự phát sang tự giác. Đó là sự chuẩn bị chu đáo về lý luận cách mạng, trực tiếp góp phần vào hình thành các tổ chức cộng sản ở Việt Nam và là tiền đề để chuẩn bị tốt cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bên cạnh đó, Quốc tế Cộng sản đã tích cực đào tạo các nhà hoạt động chính trị, các chiến sĩ cách mạng cho Việt Nam thông qua các trường của Quốc tế Công sản như Trường Đại học phương Đông, Viện nghiên cứu những vấn đề dân tộc và thuộc địa và Trường quốc tế Lênin. Đánh giá về vai trò to lớn đó, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Có thể nói không ngoa rằng Trường Đại học phương Đông ôm ấp dưới mái trường mình tất cả tương lai của các dân tộc thuộc địa”(8). Sau khi học xong, Quốc tế Cộng sản tổ chức cho các sinh viên lần lượt về nước hoạt động. Với sự giúp đỡ, chỉ đạo sát sao, kịp thời của Quốc tế Cộng sản và các đảng anh em, sự hoạt động không mệt mỏi của Nguyễn Ái Quốc và những người cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được truyền bá vào Việt Nam dẫn đến bước nhảy vọt về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đến lúc này, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không còn đủ khả năng và uy tín để lãnh đạo phong trào cách mạng đang lên cao nữa. Tình hình đòi hỏi phải có một đảng cách mạng vô sản mạnh mẽ và thống nhất trong cả nước, có kỷ luật nghiêm minh và giương cao ngọn cờ cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin để lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập. Vì vậy, đến đầu năm 1929, ở Việt Nam bắt đầu có cuộc đấu tranh giữa các nhóm cộng sản để tiến tới thành lập một đảng cộng sản thống nhất. Trong một thời gian ngắn, từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, ở Việt Nam xuất hiện ba tổ chức cộng sản (Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn). Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động các tổ chức này đả kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng. Theo dõi sát sao tình hình, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đề ra nhiệm vụ cấp bách là phải nhanh chóng xúc tiến việc thành lập một đảng cộng sản ở Việt Nam: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản…Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương"(9).. Ngay sau đó, Quốc tế Cộng sản đã gửi những người cộng sản ở Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương. Trong bản tài liệu đó, Quốc tế Cộng sản đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản và biện pháp xây dựng đảng Mác - Lênin và hướng dẫn cách tiến hành hợp nhất các phần tử cộng sản thành một đảng thống nhất. Thực hiện nhiệm vụ trên, với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị thành lập Đảng tại Cửu Long, Hồng Kông (Trung Quốc). Hội nghị đã nhất trí tán thành hợp nhất các nhóm cộng sản thành đảng cộng sản thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng, đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đó không chỉ là công lao vô cùng to lớn của Nguyễn Ái Quốc mà còn là sự giúp đỡ tận tình, sự chỉ đạo chặt chẽ và kịp thời của Quốc tế Cộng sản trong việc chuẩn bị mọi điều kiện và thành lập Đảng ta. Vì vậy, trong tác phẩm Đường Cách mệnh Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Đệ tam quốc tế là một Đảng Cộng sản thế giới. Các đảng các nước là như chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có mệnh lịnh và kế hoạch Đệ tam quốc tế thì các đảng không được làm”(10). Đây được coi là một một đóng góp to lớn của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam.
Tác phẩm “Đường Cách mệnh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
|
|
Ba là, Quốc tế Cộng sản chỉ đạo kịp thời và giúp đỡ phong trào cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Trong thời gian tồn tại (1919 - 1943) Quốc tế Cộng sản luôn coi trọng, giúp đỡ cách mạng thuộc địa đặc biệt là ở phương Đông. Nhấn mạnh về vai trò to lớn đó, trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Xem trong cách tổ chức Đệ tam quốc tế, có đặt ra một bộ riêng, chuyên nghiên cứu và giúp đỡ cho cách mệnh bên Á - Đông”(11). Đối với cách mạng Việt Nam, Quốc tế Cộng sản đã giúp đỡ, chỉ đạo kịp thời về đường lối lãnh đạo cho Đảng cộng sản Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng. Ngay sau khi ra đời, Ðảng đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh, tạo nên cao trào cách mạng rộng lớn trong những năm 1930 - 1931 làm rung chuyển chế độ thống trị của thực dân Pháp và tay sai. Trong điều kiện vừa mới ra đời, Đảng không tránh khỏi mắc phải một số sai lầm “tả” khuynh và hữu khuynh; thời cơ giành chính quyền chưa xuất hiện cho nên bị thực dân Pháp đàn áp và dìm các phong trào đấu tranh trong biển máu. Từ cuối năm 1931, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ khó khăn nhất. Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản và các tổ chức quần chúng của Quốc tế Cộng sản đã theo dõi sát sao, liên tục gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương, biểu dương tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân, thường xuyên chỉ đạo, uốn nắn kịp thời những vấn đề về chiến lược, sách lược, đồng thời, phê bình những hạn chế, thiếu sót, những biểu hiện “tả” khuynh cần khắc phục, hướng dẫn những kinh nghiệm, phương pháp đấu tranh. Đồng thời, Quốc tế Cộng sản còn phát động trong công nhân và nhân dân lao động thế giới một phong trào ủng hộ cách mạng Đông Dương, chống khủng bố trắng, đòi ân xá tù chính trị, đồng thời, chỉ thị cho các phân bộ đẩy mạnh những hoạt động thiết thực để giúp đỡ Đảng Cộng sản Đông Dương. Được sự giúp đỡ trực tiếp của Ban Phương Đông, tháng 6-1932, Đảng Cộng sản Đông Dương đã thông qua Chương trình hành động-bản Cương lĩnh hành động của Đảng trong hoàn cảnh tạm thời thoái trào nhằm khẳng định lại những nhiệm vụ cơ bản trong Luận cương Chính trị tháng 10-1930, đồng thời, đề ra những nhiệm vụ cụ thể trong tình hình mới. Bản Chương trình ra đời đã kịp thời củng cố lại phong trào, động viên toàn Đảng và các tổ chức quần chúng tiếp tục tiến lên thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Để kiện toàn ban lãnh đạo của Đảng, thực hiện quyết định của Quốc tế cộng sản, tháng 3-1934, Ban Chỉ huy ở ngoài được thành lập, do Lê Hồng Phong đứng đầu. Ban có nhiệm vụ liên lạc giữa Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế cộng sản và các đảng cộng sản; tập hợp và đào tạo cán bộ; xuất bản Tạp chí Bônsơvích, cơ quan lý luận của Trung ương Đảng. Trong thực tế, Ban Chỉ huy ở ngoài làm nhiệm vụ của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quốc tế cộng sản. Như vậy, nhờ sự chỉ đạo và nỗ lực giúp đỡ theo nhiều hướng với nhiều hình thức phong phú, và sự giúp đỡ của các đảng cộng sản - các phân bộ của Quốc tế Cộng sản đến cuối năm 1934 cách mạng Việt Nam vượt qua được những năm tháng khó khăn nhất.
Bước vào giai đoạn cách mạng 1936 -1939, Quốc tế Cộng sản có sự chuyển hướng chỉ đạo mới đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Sau Đại hội VII, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản chỉ thị cho Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng ta cần chuyển ngay về trong nước để cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng. Đồng thời, nhấn mạnh Đảng ta cần phải gấp rút thành lập mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít và chiến tranh. Vận dụng tinh thần Nghị quyết Đại hôi VII Quốc tế Cộng sản, căn cứ vào tình hình cụ thể của cách mạng trong nước và trên thế giới, Đảng cộng sản Việt Nam đã định ra nhiệm vụ chiến lược, phương pháp tổ chức và đấu tranh cách mạng trong thời kỳ mới. Với sự chuyển hướng, chỉ đạo chiến lược và sách lược mới đó đã đưa cách mạng Việt Nam tiến lên một cao trào mới - cao trào cách mạng 1936 - 1939. Từ năm 1939 trở đi, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến, những người cộng sản Việt Nam được trang bị bằng những nghị quyết của Quốc tế Cộng sản đã kịp thời chuyển hướng chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết, chuẩn bị về mọi mặt, chớp thời cơ, lãnh đạo toàn dân tộc tổng khởi nghĩa làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Với cách viết súc tích, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, tác phẩm Đường Cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh giúp ta hiểu một cách sâu sắc, toàn diện vị trí, vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam trong những giai đoạn khó khăn nhất. Những nội dung thể hiện trong tác phẩm có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc tuyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, trong việc kết hợp phong trào yêu nước với chủ nghĩa Mác, tạo lập các tiền đề tư tưởng, lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; từ đó tạo nên những bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Thời gian đã lùi xa nhưng những giá trị cốt lõi kết tinh trong Đường Cách mệnh vẫn còn nguyên vẹn, sẽ tiếp tục được các thế hệ hôm nay và mai sau kế thừa và phát triển.
ThS. Nguyễn Thị Ly
Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự
----------------------------
(1)V.I..Lênin (1978), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-cơ-va, Tập 38, tr. 364.
(2) (6) (7) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.312, tr. 311, 289,
(3) Viện Mác – Lênin (1970), Nxb Sách chính trị, Mátxcơva, tiếng Nga, tr. 199.
(4) Hồ Chí Minh (2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 12, tr. 562.
(5) V.I.Lênin (2005), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tập 41, tr. 295.
(8) (10) (11) Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Tập 1, tr. 323, tr. 310, tr. 311.