Việc Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh vào Danh sách Di sản
văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại đã khẳng định những giá trị
to lớn của di sản này, đồng thời góp phần làm phong phú thêm bức tranh
đa dạng văn hóa của Việt Nam nói riêng và của thế giới nói chung.
“Cùng với việc được vinh danh là trách nhiệm đặt ra đối với Việt Nam
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản này,” giáo sư Ngô Đức
Thịnh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn Văn hóa Tín ngưỡng Việt
Nam bày tỏ.
Sự khác biệt của đạo Mẫu
Di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là sự hỗn
dung tôn giáo bản địa của người Việt và một số yếu tố của tôn giáo du
nhập như Đạo giáo, Phật giáo. Từ thế kỷ 16, việc thực hành tín ngưỡng
này trở thành một sinh hoạt văn hóa có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống
xã hội và tâm thức người dân Việt Nam.
Cụ thể, theo giáo sư Ngô Đức Thịnh, tín ngưỡng thờ Mẫu coi tự nhiên là
một người Mẹ và tôn thờ. Trong quá trình phát triển, tín ngưỡng này có
những biến chuyển thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Tuy nhiên, dù ở
giai đoạn nào, tín ngưỡng này vẫn luôn hướng đến cuộc sống thực tại của
con người với ước vọng về sức khỏe, tài lộc, may mắn - những ước muốn
vĩnh hằng của con người.
“Điều này tạo nên sự khác biệt của đạo Mẫu. Trong khi nhiều tôn giáo
khác hướng đến việc cầu mong cuộc sống an nhàn ở hiện tại, sự siêu thoát
sau khi chết hoặc sự phù hộ của linh hồn người đã khuất với người còn
sống thì đạo Mẫu hướng đến cuộc sống hiện tại với nhu cầu thực tế, đời
thường: phúc-lộc-thọ,” vị chuyên gia này phân tích.
Bên cạnh đó, giáo sư Ngô Đức Thịnh cũng cho rằng, di sản Thực hành Tín
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt cũng thể hiện rất rõ truyền thống
uống nước nhớ nguồn, chủ nghĩa yêu nước được tâm linh hóa, ý thức về sự
giao lưu văn hóa và mối quan hệ bình đẳng, gắn bó giữa các dân tộc.
Điều này được biểu hiện cụ thể qua hệ thống các vị thần trong điện thần
Tam phủ (trong khoảng 50 vị thần mà đạo Mẫu tôn thờ, có nhiều vị vốn là
những nhân vật lịch sử, được thần linh hóa như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ
Lão…) và các Thánh Mẫu có nguồn gốc không chỉ là người Kinh mà còn thuộc
các dân tộc thiểu số như người Tày, Nùng, Dao…
Giáo sư Ngô Đức Thịnh. (Ảnh: Báo Ảnh Việt Nam/TTXVN)
Hầu đồng là gì?
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn Văn hóa Tín ngưỡng Việt Nam cho
biết, nghi lễ chầu văn (hay còn gọi là hầu đồng) là nghi lễ chính, điển
hình nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu. Thông qua nghi lễ này, con người gửi
gắm, biểu đạt những mong muốn, khát vọng của mình.
“Tuy nhiên, hầu đồng từng bị cấm đoán khá nặng nề ở Việt Nam suốt một
thời gian dài do không được hiểu đúng bản chất. Dư luận nhìn nghi lễ này
qua bức màn huyền bí với thái độ đầy nghi hoặc (do những biến tướng
xấu, theo hướng mê tín dị đoan nảy sinh trong quá trình thực hành),” ông
Ngô Đức Thịnh cho hay.
Theo ông, hầu đồng thực chất là một hình thức diễn xướng dân gian dựa
trên việc kết hợp âm nhạc mang tính tâm linh (lời ca trau chuốt) với
những điệu múa uyển chuyển và các nghi lễ trang nghiêm; từ đó, đưa con
người vào trạng thái ngây ngất.
Những người thực hành tín ngưỡng tin rằng, hình thức này có thể giúp con
người giao tiếp được với các đấng thần linh. Lúc này, các thanh đồng
đóng vai trò trung gian giữa con người và thần linh.
Yêu cầu về sự thống nhất
Đứng ở góc độ khác, giáo sư Ngô Đức Thịnh cũng cho rằng, trên thực tế,
tín ngưỡng thờ Mẫu chưa thực sự thoát khỏi tình trạng lệch chuẩn. Ông
cho rằng, trên 50% số thanh đồng thiếu những hiểu biết chuẩn về hệ thống
giá trị của tín ngưỡng thờ Mẫu.
“Thay vào đó, họ chỉ mải miết lên đồng với những sáng tạo lệch lạc như
tự ý thay đổi trang phục, cách thức hát chầu văn... Còn với công chúng,
hầu đồng (chứ không phải là những kiến thức chuẩn về tín ngưỡng thờ Mẫu)
mới là thứ khiến họ tò mò, háo hức nhất,” giáo sư Ngô Đức Thịnh bày tỏ.
Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ tại khu di tích Côn Sơn-Kiếp Bạc (Hải Dương). (Ảnh: TTXVN)
Bởi vậy, theo vị chuyên gia này, việc Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của
người Việt được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại là một trong những cơ sở quan trọng để “lập lại trật tự” cho
việc thực hành di sản (đặc biệt là với nghi lễ hầu đồng).
“Một nguyên lý quan trọng của việc bảo tồn di sản là phải dựa vào cộng
đồng - chủ thể sáng tạo di sản. Các cơ quan quản lý văn hóa, nhà chuyên
môn cần xây dựng chương trình phổ biến kiến thức về đạo Mẫu nói chung và
hầu đồng nói riêng để cộng đồng có những tri thức, hiểu biết khoa học
về di sản. Từ đó, người dân sẽ chủ động tham gia vào quá trình bảo tồn
và phát huy, kế thừa và phát triển di sản một cách đúng đắn,” giáo sư
Ngô Đức Thịnh nêu quan điểm.
Nhà nghiên cứu văn hóa này cho rằng, đây cũng là cách để hạn chế những
biến tướng xấu nở rộ theo sự phổ biến ngày càng sâu rộng của việc thực
hành di sản này sau khi được UNESCO vinh danh ở tầm thế giới.
Bên cạnh đó, ông cũng đề xuất ý kiến, các cơ quan chức năng cần đặt ra
những yêu cầu thống nhất về trang phục hầu đồng, các vật phẩm cung tiến
cũng như cách thức xây dựng, sửa chữa các đền, phủ… để tránh hiện tượng
trục lợi cá nhân trong các hoạt động liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu.
Theo thống kê sơ bộ, hiện nay, trên phạm vi cả nước có khoảng 7.000 đền,
phủ (chưa kể các điện thờ tư nhân)./.
Ngày 1/12, tại Phiên họp Ủy ban Liên Chính
phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra
tại thủ đô Addis Ababa (Ethiopia), di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ của người Việt đã chính thức được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại./.
Theo TTXVN