“CHIẾN DỊCH NÀY LÀ MỘT CHIẾN DỊCH RẤT QUAN TRỌNG"
Tháng 11/1953, Nava cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, xây dựng
nơi này thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương - xương sống của “Kế
hoạch Nava”. Lực lượng của địch ở đây lên tới 16.000 quân cùng nhiều vũ
khí hiện đại, nhằm làm bàn đạp chiếm lại Tây Bắc, khống chế chiến
trường Lào, đồng thời giữ quân chủ lực ta ở Việt Bắc để quân Pháp rảnh
tay hoạt động ở đồng bằng Bắc Bộ và đánh chiếm Liên khu 5. Chúng hết lời
ca ngợi và tuyên truyền đây là “một cứ điểm đáng sợ”, “một pháo đài bất
khả xâm phạm, không thể công phá”.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta họp dưới sự chủ toạ
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại đây, Bộ Chính trị nhận định, sau nhiều
chiến dịch tổ chức thắng lợi, ta đang ở thế chủ động chiến lược, còn
địch ở thế bị động. Từ đó, đi đến quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm
quyết chiến chiến lược - đòn quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Như vậy, ta đã từ “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” trước đây, tiến tới
chọn chỗ mạnh nhất của địch là tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tiêu
diệt. Đây là một quyết định táo bạo mà sáng suốt. Trên cương vị tối cao,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan
trọng. Không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với
trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
phải hoàn thành cho kỳ được”(1).
Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá, Điện Biên Phủ là một
tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng nó có cái yếu cơ bản là bị cô lập. Nó rất
xa hậu phương của địch, mọi tiếp tế, vận chuyển đều phải dựa vào đường
không. Đối với ta, Điện Biên Phủ cũng là nơi xa hậu phương lớn.
Để tiến
hành chiến dịch Điện Biên Phủ, khó khăn lớn nhất của ta cũng là vấn đề
cung cấp. Nhưng quân dân ta có nhiều khả năng khắc phục khó khăn hơn kẻ
địch. Đó là hậu phương của ta đang chuyển mình trong cuộc cải cách ruộng
đất. Hơn nữa, quân đội ta cũng đã trưởng thành sau các chiến dịch Biên
Giới, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, có tiến bộ trong tác chiến, trang
bị kỹ thuật, nhất là với ý chí “quyết chiến, quyết thắng” có thể đánh
được tập đoàn cứ điểm.
"CHẮC THẮNG MỚI ĐÁNH, KHÔNG CHẮC THẮNG, KHÔNG ĐÁNH"
Để đảm bảo công tác chuẩn bị và chỉ huy chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận
do Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tư lệnh Quân
đội nhân dân Việt Nam trực tiếp làm chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy
Mặt trận. Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp Mặt trận do
Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Ủy viên Bộ Chính trị làm Chủ tịch. Chủ
nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh được cử vào Thanh Hoá là vùng
tự do đông dân, nhiều gạo, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng thì về
chiến trường quen thuộc là đồng bằng Liên khu 3 trực tiếp phổ biến nhiệm
vụ, hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương huy động nhân lực, vật lực phục
vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
Khi tiễn Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra trận, Bác Hồ căn dặn vị chỉ huy
trưởng kiêm Bí thư Đảng uỷ Mặt trận Điện Biên Phủ: “Tổng Tư lệnh Mặt
trận, Tướng quân tại ngoại. Trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này
quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng,
không đánh”(2).
Chính nhờ sự tin tưởng cao độ của lãnh tụ tối cao đối với mình mà Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã có một “quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời
chỉ huy của mình”(3), khi hầu hết Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm chính
trị, Chủ nhiệm hậu cần, các cán bộ giàu kinh nghiệm của những đại đoàn
tham gia chiến đấu, nhiều cán bộ trung đoàn, liên đoàn đều thấy nên đánh
nhanh, giải quyết nhanh. Trong giờ phút khó khăn ấy, nghĩ lại lời Bác
dặn “Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”, Đại tướng đã
đưa ra quyết định chuyển từ phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sang
“đánh chắc, tiến chắc”.
Và thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ đã chứng minh tính đúng đắn
của quyết định trên. Qua đây, chúng ta có được bài học sâu sắc trong
việc chọn người giao trọng trách trong công tác sử dụng cán bộ và niềm
tin tuyệt đối của lãnh tụ tối cao đối với những cán bộ đã được ủy thác
trọng trách.
HUY ĐỘNG SỨC MẠNH TOÀN QUỐC CHO CHIẾN DỊCH
Quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã bàn bạc, phân tích rất kỹ để tìm ra phương án thích hợp huy
động sức mạnh của toàn quốc chi viện cho chiến dịch đảm bảo chắc thắng.
Một cuộc vận động nhân dân chi viện Điện Biên Phủ đã được triển khai rầm
rộ, với quy mô lớn chưa từng có. Hội đồng cung cấp Mặt trận được thành
lập để chỉ đạo các địa phương, các ngành kinh tế, tài chính, tổ chức
động viên nhân lực, vật lực của cả nước.
Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, Tất cả để đánh thắng”, chỉ
trong một thời gian ngắn ta đã huy động được một khối lượng lớn sức
người sức của từ nhiều vùng miền, từ nhiều giai cấp, tầng lớp trong cả
nước.
Theo số lượng tổng kết chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân dân đã đóng
góp trên 25.000 tấn gạo, trên 260 tấn muối, gần 2.000 tấn thực phẩm,
trên 26.000 lượt dân công với trên 18 triệu ngày công, xấp xỉ 21.000 xe
đạp thồ. Ngoài ra còn có hàng trăm xe thô sơ, hàng trăm con ngựa thồ và
hàng nghìn chiếc thuyền...
Tuy nhiên, mỗi một tấn hàng hóa chi viện tới được Tây Bắc, đến tay bộ
đội là cả một kỳ công của bao người, đổi bao mồ hôi, xương máu của lực
lượng vận tải. Khắc phục khó khăn trên, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trương huy động nguồn hậu cần tại chỗ. Đây là một nguồn rất
quan trọng không tốn nhiều công sức vận chuyển, vừa nhanh chóng, vừa đỡ
lộ bí mật. Trong đó, đồng bào Tây Bắc đã làm tốt nhiệm vụ này thông qua
việc nỗ lực tăng gia sản xuất, đóng góp hàng triệu tấn gạo, thịt, rau
cho chiến dịch. Bên cạnh đó, nhân dân Tây Bắc còn chăm lo cho bộ đội từ
cái kim sợi chỉ, viên thuốc chữa bệnh và gửi hàng vạn bức thư cổ vũ thăm
hỏi chiến sĩ…
Trong không khí thi đua “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh
thắng”, ở mọi vùng miền, địa phương đều thi đua với nhau chi viện cho
mặt trận. Đồng bào cả nước sát cánh bên nhau xẻ núi, san đồi, làm đường
phá thác để mở lối cho quân đi, cho thuyền chở hàng qua lại. Nhờ đó mà
điều lo lắng và khó khăn nhất tưởng chừng như không vượt qua được là vấn
đề hậu cần chiến dịch đã được giải quyết thành công. Chính sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân là yếu tố tạo nên thành công vượt bậc đó. Và
người đã tập hợp, huy động được sức mạnh đó chính là Đảng ta, mà đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh - người chỉ huy tối cao của Chiến dịch lịch
sử Điện Biên Phủ.
LUÔN QUAN TÂM CHỈ ĐẠO, ĐỘNG VIÊN CÁN BỘ, CHIẾN SĨ
Là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, là người chỉ huy tối cao của chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chỉ
đạo, động viên, hướng dẫn các cán bộ, chiến sĩ. Sự động viên chỉ đó
không chỉ dành cho các lực lượng tham gia chiến dịch, mà còn thể hiện
sâu sắc đối với từng cán bộ, chiến sĩ, từ những vấn đề rộng lớn tới
những tình huống cụ thể trong chiến đấu và sinh hoạt.
Ngay khi các đơn vị ta tiến lên Tây Bắc, Người đã gửi thư cho cán bộ
và chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ: “Thu - đông năm nay, các chú lại có
nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực địch, mở
rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào bị giặc đè nén.
Năm ngoái, các chú đã anh dũng chiến đấu, tiêu diệt nhiều địch, đã thắng
lợi to. Bác rất vui lòng... Các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu
đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh... Bác và
Chính phủ chờ tin thắng lợi để khen thưởng các chú”(4).
Với mặt trận đảm bảo cung cấp cho chiến dịch, một công việc nặng nề
có tính quyết định tới sự thành bại của chiến dịch, Bác cũng đã có thư
riêng “Gửi cán bộ cung cấp và đồng bào dân công”. Bác đã tặng cờ “Quyết
chiến quyết thắng” làm giải thưởng luân lưu để khích lệ mọi người lập
công trong chiến dịch Tết Giáp Ngọ (1954), Người đã gửi tặng mỗi cán bộ,
chiến sĩ ở mặt trận một chiếc ca uống nước rất đẹp có in đậm hàng chữ
đỏ tươi “Kiên quyết làm tròn nhiệm vụ”.
Tới gần ngày nổ súng mở màn chiến dịch, tháng 3/1953, Chủ tịch Hồ Chí
Minh lại có thư gửi cán bộ, chiến sĩ trên chiến trường Điện Biên Phủ.
Chiều ngày 14/3/1954, Báo Quân đội nhân dân xuất bản tại mặt trận trân
trọng đăng thư này. Trong thư, Người chỉ rõ nhiệm vụ trong chiến dịch
này là “rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang", và tin tưởng rằng,
cán bộ và chiến sĩ ta sẽ “phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi
khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới”(5).
Ngày 15/3/1954, giữa những trận đánh căng thẳng, ác liệt của đợt 1
chiến dịch, Bác Hồ và Trung ương Đảng gửi điện tới toàn thể cán bộ,
chiến sĩ trên Mặt trận. Người khen ngợi quân đội ta đã chiến thắng hai
trận đầu tiên ở Điện Biên Phủ; nêu ý nghĩa lịch sử của chiến dịch cả về
chính trị và quân sự và nhắc nhở quân và dân ta “phải cố gắng, chiến đấu
dẻo dai, bền bỉ, chớ chủ quan khinh địch, quyết giành thắng lợi trong
chiến dịch này”(6).
Ngoài thư, điện gửi bộ đội, dân công, Bác Hồ còn viết nhiều bài báo,
trả lời phỏng vấn của báo chí nước ngoài, khẳng định thắng lợi tất yếu
của chiến dịch Điện Biên Phủ và của cả cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của nhân dân ta.
Người còn dành sự quan tâm đặc biệt tới tình hình chiến trường. Để
khắc phục những khó khăn, trở ngại, bảo đảm cung cấp cho tiền tuyến, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đã kịp thời ra Nghị quyết, chỉ rõ
“Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho
Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng
cho chiến dịch này”.
Có thể thấy, suốt trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Người luôn nêu cao
tác phong sâu sát, tỷ mỷ, luôn gần gũi với cán bộ, chiến sĩ. Theo dõi
chiến dịch, nắm tin tức từng ngày, từng giờ, Bác đã đem tới cho cán bộ
chiến sỹ ngoài mặt trận một sức mạnh lớn lao và niềm tin vào thắng lợi.
Với thế trận áp đảo trên tất cả các mặt trận, toàn bộ giặc Pháp ở Điện Biên Phủ đã kéo cờ trắng ra hàng. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn cho chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ từ việc hoạch định đường lối chung đến chỉ đạo từng
trận đánh. Người đã truyền cho các chiến sĩ ta một ý chí quyết chiến
quyết thắng, một nghị lực, một sức mạnh phi thường, một niềm tin sắt đá
để quân và dân ta vượt qua khó khăn hiểm nguy giành thắng lợi hoàn toàn./.
MINH DUYÊN (baotintuc.vn)
______________
(1) (2) Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2007, t.5, tr.403, 416.
(3) Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại, Nxb. Quân đội nhân dân, H, 2004, tr.314.
(4) (5) (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.8, tr.378, 433, 434.