PHỤ NỮ CŨNG CÓ MẶT Ở TIỀN TUYẾN
Phụ nữ Việt Nam thời nào cũng vậy, lòng yêu nước đã trở thành đạo đức, tình cảm thiêng liêng và họ đã biến nó thành hành động chính nghĩa, dành độc lập cho dân tộc mình.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trước khi bước vào chiến dịch Ðiện Biên Phủ, cùng với toàn dân, phụ nữ đã tham gia mọi công việc của kháng chiến, đặc biệt là phục vụ hàng chục chiến dịch lớn. Ðây là lần đầu tiên phụ nữ tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong các chiến dịch có lực lượng địch tập trung lớn, vũ khí hiện đại.
Toàn chiến dịch Ðiện Biên Phủ, phụ nữ đã đóng góp trên 2,3 triệu ngày công, chiếm 50% số ngày công phục vụ.
Điện Biên Phủ ở xa hậu phương, địa hình hiểm trở, thời gian chiến
dịch kéo dài, thời tiết bất lợi. Địch lại tập trung lực lượng lớn không
quân đánh phá các tuyến đường giao thông; ném bom phá, bom nổ chậm, bom
napan, bom bướm… chặn đường tiếp tế của ta.
Bất chấp gian khổ,
hiểm nguy, hàng chục ngàn phụ nữ đã hăng hái tham gia vào các đội thanh
niên xung phong, làm đường, vận chuyển lương thực, thực phẩm, đạn dược,
thuốc men ra chiến trường; tải thương, nuôi dưỡng thương binh…
Nhờ
có sự đóng góp to lớn của phụ nữ mà trong suốt thời gian dài chiến dịch
vấn đề cung cấp đã được giải quyết tốt, bộ đội được ăn đủ tiêu chuẩn
0,8 kg gạo một ngày. Thương binh được đưa kịp thời về hậu tuyến và được
chăm sóc chu đáo.
Với khẩu hiệu "bảo vệ giao thông tuyệt đối", chị
em dũng cảm làm việc ngay cạnh những quả bom nổ chậm, chống lầy, phá
bom, đắp đường sạt lở, bắc cầu… Nhiều chị xông pha giữa bom đạn để cứu
hàng, ngụy trang hàng.
Trên tuyến vận tải thủy Lai Châu - Điện Biên
Phủ, phải vượt qua hàng trăm thác ghềnh nguy hiểm, phụ nữ vẫn là người
đảm nhiệm chủ yếu. Trong khi "rét rừng thấu đến xương tủy; mặc hết cả
áo, đắp hết cả chăn mà đầu gối vẫn buốt", chị em chỉ có áo mỏng vẫn chở
thuyền vượt qua các dòng thác. Có chị đã thức suốt 30 đêm, tay cầm đèn
nến, chạy lên, chạy xuống một đoạn đường có 9 cái thác để hướng dẫn các
đoàn thuyền đi-đến một cách an toàn.
Tại hỏa tuyến, phụ nữ trèo
đèo, lội suối vác đạn pháo 105 ly vào các trận địa. Có chị bị bom napan
làm cháy cả mái tóc vẫn lao mình vào cứu các hòm đạn. Hết lòng vì thương
binh, nhiều chị quỵ ngã trên đá tai mèo, đầu gối tóe máu nhưng thương
binh vẫn được nằm an toàn trong cáng. Gặp trời mưa phùn, giá rét, các
chị nhường áo mưa, áo bông cho thương binh.
Không chỉ phụ nữ
người Kinh mà phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Mèo, Dao, Hoa, Puộc,
Xá… cũng hăng hái tiếp tế lương thực, thực phẩm, đạn dược, tải thương,
làm hầm, dựng lán cho thương binh, đào hào chống xe tăng địch, phá cầu,
chữa đường…
Cũng lần đầu tiên phụ nữ Mông, Khơ Mú xuống núi "tay
xách, nách mang" nào lợn, gà, dê, ngô, khoai; phụ nữ Thái cũng rời xa
bếp củi mang thóc gạo, muối, cá... ủng hộ bội đội đánh giặc. Trải qua
nhiều năm bị áp bức bóc lột, chịu sự kìm kẹp của chế độ thực dân, họ
hiểu rằng chỉ có con đường đứng lên chiến đấu, theo con đường cách mạng
mà Đảng và Bác Hồ dẫn dắt mới thoát khỏi cảnh "nước mất nhà tan", mới có
cuộc sống hòa bình, ấm no.
Có mẹ già người Thái ở Mường Thanh,
nhà chỉ còn một ống muối vẫn kiên quyết tặng cho bộ đội. Có rất nhiều
gương sáng tận tụy, giàu lòng hy sinh của phụ nữ cho chiến dịch Điện
Biên Phủ. Nhiều chị đã ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ.
Đến
với Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, câu chuyện về nữ dân
công Hà Thị Miên, hi sinh anh dũng trên con đường tải đạn từ Nà Nhạn vào
Mường Phăng luôn được kể với giọng xúc động nhất. Kỷ vật còn lại của
chị là đôi dép cao su chị mang hằng ngày, được trưng bày trang trọng
cũng với nhiều hiện vật, tài liệu quý khác của chiến dịch Điện Biên
Phủ.
Nhật ký của cố giáo sư Tôn Thất Tùng ghi ở mặt trận Điện
Biên Phủ ngày 7/4/1954 đã viết: “Một chị dân công bị đại bác bắn vào
chân. Bảo anh Quang chữa và cho thuốc men làm sao cố cứu chị. Mai sẽ đi
gắn huy hiệu Hồ Chủ tịch cho chị. Chị đã lấy thân mình che chở cho
thương binh lúc máy bay oanh tạc. Dũng cảm quá!”.
GÓP PHẦN QUAN TRỌNG CỦNG CỐ VÀ ỔN ĐỊNH HẬU PHƯƠNG
Trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ vấn đề hậu phương là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Hậu phương có ổn định thì mới bảo đảm việc cung cấp mọi nhu cầu cho mặt trận, ổn định tinh thần chiến sĩ ngoài mặt trận. Trong khi hầu hết nam giới đã được động viên ra tiền tuyến, thì mọi công việc khác ở hậu phương phần lớn do phụ nữ gánh vác.
Chia lửa với chiến
trường, phụ nữ ở hậu phương tích cực lao động sản xuất làm ra nhiều lúa
gạo tiếp tế cho tiền tuyến; thi đua "giết giặc lập công", tham gia dân
quân du kích, đấu tranh chống giặc bắt lính, làm công tác địch vận, biểu
tình, bãi công, bãi khóa, bãi thị, tuyên truyền vạch trần mọi âm mưu
thâm độc của kẻ địch, đấu tranh trên các mặt trận kinh tế, chính trị,
văn hóa… gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Một số nữ du kích đã lập
công xuất sắc, được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân như chị Nguyễn Thị Chiên, Mạc Thị Bưởi.
Ở
các địa phương, chị em phụ nữ cũng tích cực vận động mọi người đóng góp
của cải, vật chất cho chiến dịch, tặng quần áo ấm cho người đi dân
công. Ðồng bào Mông khắc phục tập quán để xuống núi. Ðồng bào Thái cố
học cách gồng gánh của người Kinh để tăng năng suất phục vụ. Anh chị em
dân công xe thồ chuẩn bị xe đạp, cố gắng mua sắm phụ tùng tốt.
Phụ
nữ nông dân đã hưởng ứng nhiệt liệt chính sách của Ðảng và Nhà nước bất
chấp khó khăn về thiên tai, sự phá hoại và đàn áp của giặc bám làng bám
ruộng để sản xuất tăng sản lượng thóc và nộp nhanh, nộp đủ thuế. Nông
dân vùng tạm bị chiếm chuyển thóc ra vùng tự do để đóng thuế cho Chính
phủ. Có nơi nhân dân cất giấu thóc ngay tại địa phương để cung cấp cho
bộ đội và du kích hoạt động ở vùng địch hậu.
Chị em phụ nữ vùng
Tây Bắc cùng với gia đình họ đã đóng góp nhiều nhất cho chiến dịch. Ðồng
bào đã đóng góp xe đạp, thuyền bè, voi thồ, ngựa thồ. Cả vùng Tây Bắc
và vùng Trung Bộ đã huy động được hàng trăm voi để chuyên chở phục vụ
kháng chiến. Phụ nữ Tây Bắc hăng hái xay thóc để cung cấp gạo cho bộ
đội. Vào thời điểm đó, Ðảng ủy mặt trận Ðiện Biên Phủ nhận định: Vấn đề
cung cấp sẽ không được giải quyết nếu không vận động được toàn thể đồng
bào Tây Bắc đứng lên cùng bộ đội đánh giặc. Ðồng bào Mông xưa nay chưa
bao giờ xuống núi, phụ nữ Mông đã vận động chồng con đi dân công phục vụ
chiến dịch và tòng quân.
Ở vùng tự do, vùng tạm chiếm, miền xuôi,
miền ngược, đâu đâu chị em cũng sẵn sàng hy sinh những tình cảm thiêng
liêng nhất của mình, vận động chồng con, người thân tòng quân giết giặc.
Hàng nghìn gia đình có từ 3-4 quân nhân trở lên. Nhiều gia đình có đến
ba con gái, con dâu cùng nhập ngũ.
Để làm ấm lòng các chiến sĩ
đang chiến đấu ở Điện Biên Phủ, Hội mẹ chiến sĩ với trên 500.000 hội
viên đã gây dựng phong trào chăm sóc thương binh, gửi quà, thư cho bộ
đội. Phong trào phụ nữ lên Điện Biên đón thương binh về chăm sóc được
hưởng ứng sôi nổi.
Ngoài ra, phụ nữ hậu phương còn có nhiều hoạt
động khác làm suy yếu kẻ địch trên các mặt trận kinh tế, văn hóa ở khắp
các vùng đô thị, nông thôn, vùng tự do, vùng tạm bị chiếm. Các cuộc biểu
tình, bãi công, bãi khóa liên tiếp nổ ra. Các cơ sở kinh tế của địch
luôn luôn bị phá hoại. Những chiến dịch tuyên truyền, cổ động nhằm vạch
trần âm mưu của địch, khuyếch trương thanh thế của ta, thường xuyên được
tổ chức.
Có thể nói, phụ nữ đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng
vào chiến thắng Điện Biên Phủ. Chính thực dân Pháp cũng phải thừa nhận:
"Các ông đã thắng vì các ông có dân, không những nam giới mà cả phụ nữ
cũng có mặt ở tiền tuyến".
70 năm đã trôi qua, nhiều phụ nữ tham
gia chiến dịch Ðiện Biên Phủ đã không còn nữa nhưng lịch sử dân tộc luôn
ghi nhận những đóng góp phi thường của các chị. Và với lịch sử
dân tộc, họ chính là những người góp phần không nhỏ cho mốc son chói
lọi: Chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu./.
PHƯƠNG LIÊN (baochinhphu.vn)