Hiện nay các nguồn gây ô nhiễm biển trong hoạt động hàng hải, thủy sản,
du lịch, dầu khí... liên quan đến việc sử dụng tài nguyên biển rất đa
dạng và phức tạp.
Tình trạng ô nhiễm này do dầu được sử dụng làm nhiên liệu, bôi trơn,
thủy lực cho tàu, cho đến dầu hàng do tàu vận chuyển; hóa chất lỏng trên
tàu.
Các loại hàng nguy hiểm như chất nổ, chất phóng xạ, chất cháy, chất độc…
vận chuyển bằng tàu; rác thải; nước thải; sơn chống hà sử dụng cho thân
tàu. Các vật liệu độc hại dùng để đóng tàu là amiăng, kim loại nặng,
hóa chất. Ô nhiễm do sự di chuyển của các loài thủy sinh vật thông qua
nước dằn tàu; các bệnh truyền nhiễm lan truyền qua con đường hàng hải;
hoạt động phá dỡ tàu cũ, thăm dò và khai thác dầu khí trên biển.
Hoạt động của tàu biển (bao gồm cả tàu cá và tàu hàng) là một trong
những nguồn nhân tạo đóng góp đáng kể vào sự ô nhiễm không khí. Chất
lượng của tàu biển Việt Nam thường không cao, nhiều phương tiện đã quá
cũ, lạc hậu, hiệu suất đốt cháy nhiên liệu thấp và ch ưa có hệ thống xử
lý khí thải... nên đã phát thải nhiều khí độc như SO2 , CO2 , CO, NO2 ,
CxHy...
Hiện Việt Nam có trên 1.700 tàu vận tải, cùng với số lượng tàu cá khoảng
130.000 tàu, tương ứng với lượng nhiên liệu xăng dầu tiêu thụ khoảng
gần 4 triệu tấn/năm. Có thể nói, đây chính là nguồn gây ra ô nhiễm cho
vùng biển, ven biển và nhiều nơi, tác động nghiêm trọng đến hệ sinh thái
biển, hủy hoại các nguồn tài nguyên biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe
con người.
Các chuyên gia về môi trường cho rằng, các phương tiện tàu biển là nguồn
gây ô nhiễm rất lớn đối với môi trường. Đặc biệt tại các thành phố cảng
và ven biển do chúng sử dụng nhiên liệu nhựa đường kém chất lượng, có
lượng khí thải như nitơ oxit (NO), dioxit lưu huỳnh (SO2) rất cao. Bên
cạnh đó, những chất thải này cũng đã tạo ra những cơn mưa axit và những
hạt bồ hóng nhỏ li ti trong không khí.
Theo số liệu thống kê của Chính phủ Mỹ, các tàu biển là thủ phạm gây ra
2/3 lượng khí thải SO2 trong ngành giao thông vận tải năm 2002, việc
thiếu các biện pháp kiểm soát sẽ khiến tỷ lệ này có thể lên tới 98% vào
năm 2020.
Bên cạnh đó, Chính phủ Mỹ và Canada cũng đặt ra những tiêu chuẩn mới về
khí thải đối với các tàu biển cỡ lớn. Theo đó từ năm 2015, các tàu biển
mới sẽ phải giảm 96% lượng SO2 so với hiện nay. Tương tự, các tàu biển
được đóng sau năm 2016 sẽ phải cắt giảm 80% lượng khí thải NO.
Báo cáo đánh giá tác động của khí thải tàu biển đối với sức khỏe của
Liên minh châu Âu (EU) cho thấy, lượng khói thải độc hại từ các loại tàu
biển đang giết chết khoảng 39.000 người mỗi năm ở châu Âu, trong đó Anh
chịu thiệt hại nặng nề nhất.
Trưởng nhóm nghiên cứu, ông Janusz Cofala thuộc Viện Phân tích các hệ
thống ứng dụng ở Áo, cho biết sự tăng tốc của thương mại quốc tế và số
lượng các tàu biển gia tăng ngày càng làm môi trường ô nhiễm hơn. Nước
Anh chịu ảnh hưởng nặng nề nhất vì có đường biển dài và cũng là nơi giao
thương tấp nập, tàu bè qua lại nhộn nhịp. Nghiên cứu cũng cho thấy,
tuổi thọ trung bình của cư dân vùng biển phía Tây của Anh sẽ bị giảm đi
từ 20-30 tháng tính từ năm 2020.
Hiện nay, EU dự định thành lập các vùng biển có lượng khí thải thấp đầu
tiên, giảm thiểu mức độ ô nhiễm từ hàng nghìn chiếc tàu chở hàng lưu
chuyển qua các vùng biển mỗi năm. EU sẽ chấp nhận Chính phủ các nước hỗ
trợ các công ty hàng hải nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn SO2 một cách chặt
chẽ. Ủng hộ các giải pháp của EU, Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) nhất
trí sẽ hạn chế hàm lượng SO2 trong nguồn nhiên liệu cho tàu biển, đối
với các tàu thuyền đi qua khu vực có kiểm soát khí thải có hiệu lực vào
năm 2015.
Trong khi đó, các công ty vận tải biển sẽ phải đối mặt với khả năng đáp
ứng phát thải hàm lượng SO2 thấp và chi phí nhiên liệu sạch hơn, khiến
cước vận tải hàng hóa đường biển tăng cao. EU đã chấp nhận đề nghị của
IMO về giảm hàm lượng lưu huỳnh trong các nhiên liệu biển, với mức giới
hạn lưu huỳnh cho tất cả các tàu thuyền sẽ cắt giảm xuống mức 0,5% trong
năm 2020 (hiện tại đang là 3,5%). Các giới hạn cho tất cả các tàu ở
vùng biển Baltic và Biển Bắc (được gọi là khí thải khu vực kiểm soát),
sẽ cắt giảm xuống 0,1% từ 0,5% vào năm 2015. Thay vì sử dụng nhiên liệu
chứa lưu huỳnh thấp, các nhà khai thác tàu biển cũng có thể sử dụng công
nghệ xử lý thay thế làm sạch khí thải của tàu thuyền để giảm thiểu ô
nhiễm.
Nhằm kiểm soát tốt khí thải từ tàu trong hoạt động hàng hải ở mức độ cho
phép, Việt Nam cần có các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, quy
định, quy chuẩn nhà nước cho các tàu cá và tàu vận tải về giảm thiểu
phát thải khí thải, đặc biệt khí thải nhà kính, về khoa học công nghệ
tàu biển, máy tàu, lò thu gom khí thải.
Đối với tàu vận tải, Việt Nam cần sớm xem xét tham gia đầy đủ phụ lục 6 -
"Các quy định về ngăn ngừa ô nhiễm không khí do tàu gây ra” của Công
ước quốc tế MARPOL 73/78 IMO. Đồng thời xây dựng các bộ chỉ số theo
chuẩn mực IMO về thiết kế hiệu quả năng lượng (EEDI), là một chỉ số có
thể thẩm định nhờ tính toán các thông số thiết kế tàu. Chỉ số này là một
phương tiện giúp các chủ tàu so sánh hiệu quả các bản thiết kế cùng
một loại tàu có kích cỡ như nhau, của nhiều xưởng đóng tàu khác
nhau.
Ngoài ra Việt Nam cần tổ chức đào tạo nhân lực, nâng cao nhận thức về
giảm thiểu khí thải từ tàu biển và biến đổi khí hậu cho các đối tượng
liên quan đến hàng hải, thủy sản và kinh tế biển. Đổi mới công nghệ đóng
tàu biển theo tiêu chuẩn hàng hải xanh mới, giảm phát thải động cơ -
máy tàu, lò đốt rác. Ban hành chính sách đánh thuế, thu phí khí thải tàu
biển; hợp tác và trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức môi trường-hàng
hải quốc tế trong lĩnh vực khí thải biển.
Nghiên cứu, xây dựng, thiết lập một số vùng “kiểm soát khí thải” hay
“đặc biệt” tàu biển tại các khu vực hải cảng gần khu biển, có giá trị
đặc biệt về môi trường sinh thái trên vùng biển Việt Nam. Theo đó, tất
cả những tàu biển cỡ lớn có lượng khí thải ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn
cho phép sẽ hạn chế không được cập cảng, hoặc theo chế độ hoa tiêu đặc
biệt. "Vùng kiểm soát khí thải" này có thể thiết lập tại hai khu vực ven
biển Quảng Ninh-Hải Phòng và Vũng Tàu-Thành phố Hồ Chí Minh./.
Văn Toán (TTXVN)