Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặt mục tiêu: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Xây dựng kinh tế tuần hoàn được Đại hội xác định là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 để đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững bằng việc tích cực thực hiện các hành động bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu trên quy mô lớn trong 10 năm tới.
Từ giữa thế kỷ 20, sự gia tăng nhanh dân số, sức ép của tăng trưởng, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, nhu cầu tiêu thụ các loại nhiên liệu và năng lượng đã làm gia tăng mạnh khai thác tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển bền vững được tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc thông qua vào năm 2015 đã đưa ra một kế hoạch chung về hòa bình, thịnh vượng cho con người và hành tinh của chúng ta trong hiện tại và tương lai, kêu gọi hành động khẩn cấp của tất cả các quốc gia bảo vệ môi trường đất, nước, không khí, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo tồn rừng, biển, đại dương và giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu hướng tới một nền kinh tế các-bon trung tính, không phát thải vào năm 2050. Chuyển dịch kinh tế theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh(1), kinh tế phát thải các-bon thấp(2) là xu thế tất yếu của thời đại, được đồng thuận toàn cầu và được các nước trên thế giới coi là cuộc cách mạng công nghiệp xanh của thế kỷ 21, là cơ hội để cộng đồng toàn cầu chung tay thực hiện cam kết quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu nhằm mục tiêu phát triển bền vững vì sức khỏe của người dân, môi trường thiên nhiên và Trái đất.
Đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, đã tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu, thay đổi nhận thức của người dân trên toàn thế giới, càng làm sâu sắc thêm yêu cầu về thay đổi mô hình tăng trưởng hướng đến phát triển bền vững. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia trên thế giới, như các nước thuộc Liên hiệp châu Âu (đi đầu là Hà Lan, Đức, Phần Lan và Đan Mạch), Ca-na-đa, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Xin-ga-po đang chuyển đổi mạnh mẽ sang kinh tế tuần hoàn. Ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững; tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; tăng cường tái chế, tái sử dụng chất thải. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định xây dựng kinh tế tuần hoàn là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030. Thời gian tới, cần có một nghị quyết Trung ương về kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam khẳng định trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân phải học tập kinh nghiệm của các nước và vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam để tận dụng các cơ hội hợp tác về tiếp nhận chuyển giao các công nghệ về thiết kế, chế tạo, chuyển đổi số nhằm phát triển thành công kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.
Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang triển khai xây dựng tiêu chí, lộ trình và cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Đây là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất, và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường. Về bản chất, kinh tế tuần hoàn không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. Kinh tế tuần hoàn có thể giữ cho dòng vật chất được sử dụng lâu nhất có thể, khôi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi vòng sản xuất hay tiêu dùng.
Vấn đề quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu đã được toàn xã hội nhận thức đầy đủ hơn. Chính vì vậy, các chiến dịch về bảo vệ môi trường như chống rác thải nhựa đã được cộng đồng doanh nghiệp và người dân trên cả nước tích cực hưởng ứng và tham gia. Đã hình thành một số mô hình mới hướng đến gần hơn với kinh tế tuần hoàn như: mô hình khu công nghiệp sinh thái tại một số địa phương; sáng kiến “Không xả thải ra thiên nhiên” do VCCI khởi xướng; mô hình chế biến phụ phẩm thủy sản; Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam; Đối tác toàn cầu về nhựa của Việt Nam; hiện nay, cộng đồng doanh nghiệp cũng đang rất tích cực hưởng ứng mô hình kinh tế tuần hoàn... Các điển hình này khi được tổng kết, đánh giá dựa trên những nguyên tắc, tiêu chí cơ bản sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện về kinh tế tuần hoàn cho Việt Nam.
Tuy nhiên, Việt Nam còn đối mặt nhiều thách thức, như chưa hình thành được ngành công nghiệp môi trường; còn thiếu các doanh nghiệp đủ năng lực về công nghệ tái chế, tái sử dụng các sản phẩm, vật liệu đã qua sử dụng; phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, khó khăn trong việc đầu tư đổi mới công nghệ trong ngắn hạn, khó thay đổi ngay thói quen sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội hiện nay đối với nhiều sản phẩm dễ sử dụng như túi ni-lông, sản phẩm nhựa dùng một lần để chuyển sang chỉ sử dụng những vật liệu, sản phẩm có thể tái chế, tái sử dụng hoàn toàn.
Nhận thức được yêu cầu tất yếu của chuyển dịch kinh tế theo hướng tuần hoàn, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã thể chế hóa một số cơ chế, chính sách để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn như: phân loại chất thải tại nguồn, thu phí chất thải dựa trên khối lượng, tái chế, tái sử dụng chất thải; trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất; các công cụ, chính sách kinh tế như thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường; mua sắm xanh, tín dụng xanh, trái phiếu xanh, phát triển thị trường các-bon, phát triển công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường...
Ngay từ những năm đầu của thập niên 2021 - 2030, cần tập trung triển khai nhiều giải pháp để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam nhằm tận dụng những cơ hội hợp tác trong tiếp cận và tiếp nhận chuyển giao công nghệ, chuyển đổi số phục vụ phát triển bền vững đất nước. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, kiến tạo, doanh nghiệp thiết lập hệ thống quản lý, thực hiện và tuân thủ quy định pháp luật, người dân phải nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, thực hiện giám sát cộng đồng, phát huy vai trò làm chủ trong xây dựng, phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Cụ thể, cần thực hiện một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn như sau:
Một là, cần xem phát triển kinh tế tuần hoàn là giải pháp tất yếu để đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm sản xuất và tiêu dùng bền vững, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo; phân bổ, quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu. Kiến nghị Trung ương khóa XIII xem xét ban hành nghị quyết về thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn.
Hai là, lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các cơ chế, chiến lược, chính sách, pháp luật thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, phù hợp chủ trương của Đảng, xu thế mới, những quy định, tiêu chuẩn đã và đang hình thành trong khu vực và trên quy mô toàn cầu.
Ba là, các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh thực hiện lồng ghép kinh tế tuần hoàn ngay từ giai đoạn xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển; quản lý, tái sử dụng, tái chế chất thải. Coi tài nguyên là nguồn vốn tự nhiên cần phải được hạch toán, theo dõi, đánh giá và cân đối tương xứng với các nguồn vốn khác trong quá trình hoạch định chính sách, điều hành ở các cấp, các ngành, lĩnh vực. Coi chất thải là nguồn tài nguyên quý giá có thể tái chế, tái sử dụng, tạo việc làm và nâng cao giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Bốn là, phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị, quán triệt các cấp ủy đảng, chính quyền; tăng cường tuyên truyền rộng rãi trong toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa, lợi ích và tầm quan trọng của phát triển kinh tế tuần hoàn; lồng ghép các yêu cầu phát triển kinh tế tuần hoàn vào đời sống và thực tiễn của người dân, cộng đồng và toàn xã hội.
Năm là, thực hiện các giải pháp để chuyển đổi mô hình kinh tế như điều chỉnh quy hoạch năng lượng, giảm dần sự phụ thuộc vào các dạng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch, thủy điện ; xây dựng lộ trình chuyển đổi công nghệ, chuyển đổi số dựa trên các tiêu chí tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, giảm đến mức thấp nhất lượng chất thải.
Sáu là, quy định trách nhiệm cụ thể của nhà sản xuất trong việc thu hồi, tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường; phát triển công nghiệp môi trường, thị trường hàng hóa và dịch vụ môi trường, sản phẩm thân thiện môi trường...; quản lý dự án theo vòng đời, thiết lập lộ trình xây dựng và áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường (phát thải và công nghệ) tương đương với nhóm các quốc gia tiên tiến trong khu vực.
Bảy là, chú trọng ngay từ khâu quy hoạch, kế hoạch, thiết kế sản xuất, thiết kế sản phẩm để tăng cường kết nối chuỗi sản xuất tuần hoàn. Lựa chọn một số ngành, lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thực hiện theo mô hình kinh tế tuần hoàn như: công nghiệp giấy, sản xuất sắt, thép, nhiệt điện, quản lý nước theo chu trình. Phát triển các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, trung tâm nhiệt điện theo mô hình tuần hoàn. Xây dựng bộ chỉ số, tiêu chí để theo dõi, đánh giá và áp dụng các chính sách khuyến khích chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn ở cấp quốc gia, vùng và địa phương bao gồm các nội dung về sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiêu thụ tài nguyên, tận dụng chất thải và lượng phát thải.
Tám là, xây dựng thể chế thị trường, đẩy mạnh áp dụng các công cụ dựa vào thị trường trong các lĩnh vực quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường để khuyến khích đổi mới công nghệ, phương thức quản lý, hành vi tiêu dùng của xã hội theo hướng khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả hơn nguồn vốn tự nhiên mà thiên nhiên ban tặng cho nền kinh tế, tránh bẫy lời nguyền tài nguyên; khuyến khích tận dụng tốt hơn chất thải của nền kinh tế, giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tự nhiên và năng lực chống chịu của nền kinh tế trước những cú sốc về thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu.
Chín là, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ, lấy chuyển đổi số và ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 làm động lực vào phát triển kinh tế tuần hoàn.
Quản lý, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai là yêu cầu cấp bách nhằm thúc đẩy phát triển bền vững đất nước, được Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo bằng nhiều chủ trương, chiến lược, chính sách mang tầm thời đại. Kinh tế tuần hoàn được thế giới xác định là giải pháp tổng thể hướng tới phát triển bền vững. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định xây dựng kinh tế tuần hoàn là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021- 2030, là cơ sở vững chắc để chúng ta tin tưởng vào việc tận dụng thành công các cơ hội và chuyển hóa được những thách thức để phát triển kinh tế tuần hoàn, góp phần quản lý, phân bổ, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước tới năm 2030, tầm nhìn 2045.
TS TRẦN HỒNG HÀ
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường
(1) Kinh tế xanh là “nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các nguy cơ về môi trường và suy giảm sinh thái” (theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc - UNEP).
(2) Kinh tế phát thải các-bon thấp là hệ thống nhằm mục tiêu giảm thiểu phát thải khí nhà kính trong khi hoạt động như một chương trình kinh tế cụ thể, với mục tiêu chính là ứng phó với BĐKH.
___________________
Nguồn: Báo Nhân Dân