1. Việt
Nam có 54 dân tộc, bao gồm dân tộc Kinh (Việt) và 53 dân tộc thiểu số.
Khoản 4, Điều 4, Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 của Chính
phủ về "Công tác dân tộc” quy định: “Vùng dân tộc thiểu số” là địa bàn
có đông các dân tộc thiểu số cùng sinh sống ổn định thành cộng đồng trên
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Văn hóa vùng dân tộc
thiểu số có một số đặc điểm riêng biệt, độc đáo, đồng thời cũng có những
biến đổi nhất định trong thời gian gần đây trước tác động của toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, văn hóa vùng dân tộc thiểu số có tính đa dạng.
Đa
dạng văn hóa là một đặc trưng của xã hội loài người. Năm 2001, Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã ra tuyên
ngôn toàn cầu về đa dạng văn hóa, trong đó nhấn mạnh: Là một nguồn trao
đổi, cải tiến và sáng tạo, sự đa dạng văn hóa đối với nhân loại cũng cần
thiết như sự đa dạng sinh học trong trật tự cơ thể sống vậy. Với ý
nghĩa đó, đa dạng văn hóa là di sản chung của nhân loại và phải được
thừa nhận và khẳng định vì lợi ích của các thế hệ ngày nay và mai sau.
Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc đều có nhiều ngành, nhóm
địa phương khác nhau. Do đó, xét về mặt văn hóa dân tộc, Việt Nam là đất
nước đa văn hóa. Tính đa dạng về văn hóa không chỉ phổ biến ở các dân
tộc mà còn phản ánh đậm nét ở các vùng, miền khác nhau. Người Dao ở vùng
cao khác với người Dao ở vùng thấp. Người Tày ở phía đông sông Hồng
khác với người Tày ở phía tây sông Hồng. Người Thái ở vùng Tây Bắc cũng
khác với người Thái ở Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) và miền Tây Thanh Hóa -
Nghệ An. Sự đa dạng về địa hình và những giao lưu văn hóa là những yếu
tố tạo nên tính đa dạng văn hóa, góp phần quan trọng làm giàu kho tàng
văn hóa các dân tộc Việt Nam; đồng thời là nòng cốt để phát triển bền
vững văn hóa, bởi không thể phát triển bền vững mà không có tính đa dạng
văn hóa.
Thứ hai, cơ chế văn hóa dân gian là cơ chế vận hành quan trọng của vùng dân tộc thiểu số.
Ở
vùng dân tộc thiểu số, người dân thường sống trong cộng đồng, trong các
phum, sóc, bản, làng với mối quan hệ chủ đạo là quan hệ cộng đồng. Tính
cộng đồng đề cao, chi phối các quá trình sáng tạo, phổ biến, tiêu dùng
văn hóa. Mỗi một sản phẩm văn hóa đều được coi là sáng tạo của cộng
đồng. Ví dụ, một bản nhạc, một điệu múa lúc đầu có thể do một nghệ nhân
sáng tác, nhưng sau đó được cả cộng đồng trau chuốt; mặt khác, nghệ nhân
sáng tác thường theo thị hiếu và quan điểm của cộng đồng. Do đó, tác
phẩm văn hóa là tài sản chung của cộng đồng. Tính cộng đồng này được thể
hiện nổi bật trong các thể chế phi chính thức, tạo ra vô số các chuẩn
mực, thói quen, khuôn mẫu ứng xử, luật tục, hương ước… Các chuẩn mực
đóng vai trò rất quan trọng trong việc quản lý xã hội, quản lý tài
nguyên thiên nhiên, định hướng các hành vi ứng xử của mỗi cá nhân.
Cơ
chế văn hóa dân gian còn quy định mọi hoạt động văn hóa quy mô lớn hay
các sự kiện văn hóa ở mỗi cộng đồng, mỗi tộc người đều phụ thuộc vào
thời vụ sản xuất. Nền kinh tế của đồng bào các dân tộc thiểu số chủ yếu
là kinh tế nông nghiệp mang đậm tính chất thời vụ. Do đó, các hoạt động
nghi lễ đều xoay quanh thời vụ của cây trồng chính (lúa, ngô,…). Mỗi
loại cây trồng có thời vụ khác nhau nhưng người dân đều có thời gian
mang tính nông nhàn và tiểu nông nhàn. Với cư dân trồng lúa, khi gieo
trồng xong đến thời kỳ cây lúa phát triển thì họ có thời gian nhàn rỗi
gọi là tiểu nông nhàn; nhưng đến khi thu hoạch xong thì đó là thời gian
nông nhàn. Đây là thời gian tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật,
lễ hội, nghi lễ cộng đồng, nghi lễ gia đình. Tính mùa vụ quy định rất
chặt chẽ đời sống của người dân. Vì vậy, mọi hoạt động tuyên truyền văn
hóa của Nhà nước muốn đến với người dân cần tuân theo cơ chế mùa vụ. Các
bản làng không thể tổ chức các cuộc thi hát hay biểu diễn văn nghệ quần
chúng trái với mùa vụ.
Cơ
chế văn hóa dân gian còn chi phối toàn bộ các thành tố văn hóa của cộng
đồng. Mỗi phong tục, tập quán, nghi lễ, các sinh hoạt văn hóa đều mang tính chỉnh thể.
Một bài hát then luôn gắn với sinh hoạt thực hành nghi lễ then. Bài dân
ca đám cưới bao giờ cũng được tổ chức trong môi trường diễn xướng, lễ
cưới. Các thành tố văn hóa của tộc người đều có giá trị, chức năng khác
nhau, có sự liên kết chặt chẽ mang tính quan hệ hữu cơ. Đặc điểm này chi
phối nhận thức và tổ chức các hoạt động văn hóa.
Trong
các thành tố văn hóa tộc người, tri thức dân gian đóng vai trò rất quan
trọng đối với phát triển bền vững. Tri thức dân gian là kho tàng kinh
nghiệm được đúc kết qua nhiều năm trong lịch sử, trở thành các ứng xử
của tộc người với mối quan hệ xã hội, quan hệ với môi trường, bảo vệ các
tài nguyên đất, rừng, nước… Ví dụ, tháng 2/2010, Vườn quốc gia Hoàng
Liên bùng cháy dữ dội, thiêu rụi trên 1.000ha, lực lượng quân đội Quân
khu 2 và dân quân tỉnh Lào Cai đã huy động hàng nghìn người cùng gần 500
đồng bào người Mông, người Dao lên núi dập lửa bằng kinh nghiệm dân
gian thông qua việc nghiên cứu hướng gió, đặc điểm địa hình núi đá, đặc
điểm cây rừng để làm đường ranh cản lửa, tổ chức vận chuyển nước và đã
dập tắt được ngọn lửa sau 6 tiếng. Như vậy, tri thức dân gian của đồng
bào dân tộc thiểu số đóng vai trò quan trọng trong việc thích ứng với
biến đổi khí hậu, xây dựng các mô hình phòng, chống thiên tai. Bên cạnh
đó, nhờ có tri thức dân gian, nhiều địa phương đã xây dựng được các sản
phẩm OCOP (Chương trình mỗi xã, phường, thôn, bản một sản phẩm), góp
phần hiệu quả xóa đói, giảm nghèo.
Thứ ba, những tác động của các phương tiện truyền thông xã hội thời gian gần đây.
Từ
năm 2010 đến nay, các phương tiện truyền thông xã hội đã phát triển
mạnh mẽ ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Trước
hết, kết cấu hạ tầng của các phương tiện truyền thông xã hội trong những
năm qua đã có sự bùng nổ, internet phát triển mạnh mẽ ở cả khu vực đô
thị và nông thôn. Ở các tỉnh miền núi phía Bắc, mạng internet đã phủ kín
từ 80 - 98% số thôn, bản. Điển hình như tỉnh Lào Cai năm 2019 đã có hơn
98% số thôn có hạ tầng bảo đảm kết nối internet băng rộng di động tại
trung tâm, khu vực tập trung dân cư. Thuê bao internet ở bản Vàng Pheo
(xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu) những năm qua phát triển
nhanh, đặc biệt là thuê bao internet tốc độ cao ADSL và thuê bao cáp
quang FTTH. Bản Vàng Pheo đã được phủ sóng điện thoại; có cáp quang đi
qua; phủ sóng 3G. Toàn bộ các nhà hàng ăn, uống ở Mường So đều có wifi
miễn phí, nhiều quán hàng ăn uống bình dân cũng phục vụ wifi miễn phí.
Toàn bản có 118 hộ nhưng đã có khoảng 230 thuê bao internet (di động và
cố định). Một số tỉnh, như Phú Thọ, Lào Cai, Bắc Giang…, tốc độ thuê bao
internet cũng gia tăng rất nhanh.
Các
phương tiện truyền thông xã hội xuất hiện ở vùng dân tộc thiểu số chưa
đến một thập niên nhưng có tác động mạnh mẽ đến quan hệ xã hội của tộc
người. Trước hết là sự hình thành ý thức cố kết cộng đồng tộc người cao,
mang tính chất xuyên biên giới trên phạm vi toàn cầu. Các trang
facebook của người Mông, Thái, Dao đều có mối quan hệ xuyên quốc gia với
số người tham gia ngày càng đông đảo đến từ Pháp, Mỹ các nước ở khu vực
Đông Nam Á… Các nhóm facebook này đề cao các bản sắc tộc người, ý thức
cố kết tộc người mang tính chất toàn cầu, “đánh thức” và lan tỏa rộng
khắp ý thức tộc người trong cộng đồng. Bên cạnh đó, mối quan hệ tộc
người về văn hóa cũng phát triển khá mạnh thông qua các phương tiện
truyền thông xã hội, như hình thành và thống nhất chữ viết chung của một
số cộng đồng dân tộc Mông, Thái, Dao…; hình thành nhiều trang, nhóm
tuyên truyền, quảng bá về phong tục, tập quán, ẩm thực, lễ hội, di sản
văn hóa, văn nghệ các tộc người. Ví dụ, trong cộng đồng người Dao ở tỉnh
Lào Cai, nhiều youtuber (người sáng tạo nội dung và chia sẻ video trên YouTube)
mở các trang giới thiệu, quảng bá về văn nghệ, phong tục, tập quán, lễ
hội độc đáo,… của người Dao. Ẩm thực Thái đã được các nhóm cộng đồng
người Thái Mường Lò, Mường La thường xuyên giới thiệu trên các phương
tiện truyền thông xã hội. Trên Youtube, nhiều kênh do các bạn trẻ người
Thái yêu ca hát lập nên với hàng trăm nghìn lượt theo dõi và hàng triệu
lượt xem.
Nhờ
có các phương tiện truyền thông xã hội, một số dân tộc thiểu số đã tham
gia hoặc đứng ra tổ chức các sự kiện văn hóa có quy mô quốc gia, quốc
tế. Sự kiện “Giao lưu văn hóa Thái Việt Nam lần thứ nhất” được tổ chức
tại Hà Nội năm 2017 vừa quy tụ được đông đảo cộng đồng người Thái ở Việt
Nam, vừa có sự tham gia của các đoàn người Thái đến từ Thái Lan, Lào…
Bên lề các sự kiện, như “Ngày hội văn hóa Thái toàn quốc” năm 2019 do Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức, “Lễ hội Xòe Mường Lò” các năm
2018, 2019… đều có sự tham gia của cộng đồng người Thái Đông Nam Á. Lễ
hội Gầu Tào của người Mông ở Pha Long, tỉnh Lào Cai cũng thu hút được
nhiều người Mông ở một số nơi trên thế giới.
Tuy
nhiên, các phương tiện truyền thông xã hội và internet cũng đặt ra
không ít thách thức trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, cũng như thách thức
trong việc bảo vệ trật tự, an toàn xã hội khi các thế lực thù địch đang
ra sức lợi dụng các phương tiện truyền thông mới để đẩy mạnh âm mưu
“diễn biến hòa bình”, chống phá Đảng và Nhà nước ta.
2. Trên
cơ sở nhận thức được những điểm đặc thù trong văn hóa vùng dân tộc
thiểu số hiện nay, thời gian tới, chúng ta cần thống nhất quan điểm và
có những chính sách phù hợp để thúc đẩy văn hóa vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số phát triển, trở thành nguồn lực quan trọng thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Một là, thống nhất quan điểm tính đa dạng là đặc điểm nổi trội của văn hóa các dân tộc.
Trong xây dựng và thực thi chính sách, cần bảo đảm sự tôn trọng đa dạng
văn hóa, chú ý tới đặc thù văn hóa của vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Các dân tộc phải được bình đẳng, văn hóa của các dân tộc đều có giá trị
như nhau, đều được tôn trọng ngang nhau, không có văn hóa cao và văn hóa
thấp.
Văn
hóa các dân tộc đều có đặc trưng chỉnh thể, nguyên hợp. Mỗi thực hành
văn hóa (nghi lễ, tín ngưỡng, phong tục, tập quán…) đều có nhiều bộ phận
(thành tố) có những giá trị, chức năng khác nhau, có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau, khi thay đổi một thành tố của văn hóa thì sẽ thay đổi cả
hệ thống văn hóa. Vì thế, không thể áp dụng các quan điểm ấu trĩ, tả
khuynh; không thể cắt xén từng bộ phận, thành tố văn hóa để bảo tồn và
phát huy. Khi nghiên cứu các yếu tố phát triển bền vững về văn hóa, cần
có quan điểm toàn diện, chú trọng đến các yếu tố tự nhiên, chính trị,
môi trường, kinh tế, xã hội của chủ thể văn hóa dân tộc, từ đó đề xuất
các giải pháp hiệu quả.
Hiện
nay, các phương tiện truyền thông xã hội đang phát triển mạnh mẽ ở khắp
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vì vậy, cần có các giải pháp quản lý
hiệu quả, phù hợp, chú ý đến quan hệ tộc người xuyên biên giới.
Hai là, về xây dựng chính sách và thực hiện chính sách.
Với
quan điểm về đa dạng văn hóa, về tính chỉnh thể, nguyên hợp trong văn
hóa dân gian, về các yếu tố truyền thông xã hội…, cần rà soát lại các
đạo luật và các chương trình mục tiêu, các thể chế, chính sách về văn
hóa cho phù hợp với thực tiễn văn hóa vùng dân tộc thiểu số hiện nay. Cụ
thể là:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung một số đạo luật. Trong Luật Di sản văn hóa cần sửa đổi, bổ sung Điều 26. Về chính sách tôn vinh,
cần mở rộng đối tượng được tôn vinh, đó là không chỉ tôn vinh nghệ nhân
mà còn tôn vinh những người thực hành, người có công bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Về chính sách truyền dạy,
cần bổ sung chính sách khuyến khích việc truyền dạy trực tiếp tại cộng
đồng, chính sách nghệ nhân tham gia truyền dạy tại các cơ sở của ngành
giáo dục, đưa nội dung di sản văn hóa phi vật thể vào giảng dạy tại các
trường phổ thông, trường nghề, trường văn hóa - nghệ thuật. Về chính sách hỗ trợ sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân,
cần bổ sung chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân hỗ trợ
nghệ nhân tham gia thực hành, sáng tạo văn hóa. Cần sửa đổi, bổ sung
Luật Thi đua, khen thưởng theo hướng, bên cạnh việc tôn vinh bằng danh
hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú, cần bổ sung đối tượng, hình
thức tôn vinh, khen thưởng khác ở Điều 65 của Luật Thi đua khen thưởng.
Việc bổ sung đối tượng, hình thức tôn vinh này cần thống nhất với Luật
Di sản văn hóa.
Cần có những chính sách phù hợp để thúc đẩy văn hóa vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số phát triển, trở thành nguồn lực quan trọng thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa
phương. (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)
Thứ hai,
bổ sung một số nội dung trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn
2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 (gọi tắt là Chương
trình) cho phù hợp với đặc thù văn hóa vùng dân tộc thiểu số. Chương
trình đã có nhiều điểm phù hợp với đặc điểm vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, tuy nhiên có một số điểm chưa thấm đẫm đặc trưng dân tộc, chưa thể
hiện rõ sự tôn trọng cái riêng của các dân tộc trong lĩnh vực văn hóa.
Ví dụ: Vấn đề xây dựng nhà văn hóa, xây dựng quy ước, hương ước, xây
dựng câu lạc bộ… chủ yếu mới chỉ chú ý đến đặc điểm chung, ít chú ý đến
các đặc điểm riêng của từng dân tộc, tộc người. Nhà văn hóa của người
Mông, Dao cũng giống như nhà văn hóa của người Chăm, Khmer; đường đến
các làng du lịch đều được bê-tông hóa, giống các làng ở vùng đồng bằng…
Ngoài ra, nội dung, hình thức truyền thông, tuyên truyền đồng bào các
dân tộc thiểu số trong Chương trình chưa đề cập đến văn hóa mạng và
không gian các phương tiện truyền thông xã hội trong công tác tuyên
truyền. Riêng lĩnh vực tuyên truyền, vận động cần nghiên cứu, đổi mới
một cách toàn diện, phù hợp hơn với bối cảnh của toàn cầu hóa, số hóa
hiện nay, trong đó có nội dung đề cập đến những cơ hội và thách thức đặt
ra từ sự phát triển của mạng xã hội đối với sự phát triển văn hóa vùng
dân tộc thiểu số, cũng như những giải pháp phù hợp để vượt qua thách
thức, khắc phục những hạn chế trong quá trình phát triển.
Thứ ba, tăng
đầu tư ngân sách cho văn hóa. Khảo sát và dựa vào niên giám thống kê ở
một số tỉnh vùng dân tộc thiểu số từ năm 2015 - 2020 cho thấy, nhìn
chung đầu tư cho lĩnh vực văn hóa còn thấp. Mức chi cho ngành văn hóa
còn hạn chế khiến cho lĩnh vực này chậm phát triển, văn hóa chưa thực sự
trở thành động lực của sự phát triển; nhiều địa phương chưa phát huy
được lợi thế so sánh để phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa mũi
nhọn giúp tăng nhanh nguồn thu cho ngân sách. Vì thế, vấn đề cấp bách
hiện nay là các địa phương cần đổi mới nhận thức về vai trò của văn hóa
đối với sự phát triển, tránh tư tưởng coi nhẹ vai trò của văn hóa, xem
văn hóa không phải là ngành sản xuất. Cần xác định, đầu tư cho văn hóa
chính là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho nguồn lực con người. Theo đó,
cần tăng cường đầu tư cho phát triển văn hóa, chú trọng đầu tư cho các
ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng phát triển nhanh ở địa phương.
Đổi mới cơ chế, chính sách về đầu tư cho văn hóa, xóa bỏ cơ chế xin -
cho; khắc phục những hạn chế, bất cập, qua đó thúc đẩy văn hóa vùng dân
tộc thiểu số ngày càng phát triển, góp phần vào sự phát triển bền vững
của đất nước./.
TS. TRẦN HỮU SƠN
Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
(Nguồn: TC Cộng sản)