Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã ghi nhận phụ nữ từ thời Hùng Vương dựng nước đến thời đại Hồ Chí Minh lịch sử đã đóng góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử cũng chứng minh rằng, phụ nữ Việt Nam không chỉ giỏi việc nhà mà còn đảm việc nước. Luôn dành sự quan tâm đến phụ nữ: "Suốt cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh đã có hơn bốn mươi bài phát biểu, bài viết, thư gửi chị em phụ nữ"[1]; trong đó, không chỉ đề cao vị trí, vai trò của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử mà tư tưởng của Người về giải phóng phụ nữ còn mang tính kế thừa, phát triển, vận dụng sáng tạo nguyên lý học thuyết Mác - Lênin phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, thể hiện mục tiêu giải phóng phụ nữ phải gắn với giải phóng dân tộc và giải phóng toàn diện, đồng bộ, triệt để.
1. Đánh giá đúng vị trí, vai trò, khả năng và những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại, Hồ Chí Minh khẳng định: "Non sông gấm vóc Việt Nam đều do phụ nữ ta trẻ cũng như già ra sức thêu dệt mà thêm tốt đẹp, rực rỡ"[2]. Theo Người, "đàn bà con gái cũng nằm trong nhân dân, nếu cả dân tộc được tự do, đương nhiên họ cũng được tự do. Ngược lại, nếu dân tộc còn trong cảnh nô lệ thì họ và con cái họ cũng sẽ sống trong cảnh nô lệ đó thôi"[3]. Phụ nữ chiếm đa số trong lực lượng dân tộc, trong nhân dân lao động; là những người chịu nhiều đau khổ, hy sinh, mất mát; có tinh thần cách mạng sâu sắc và là một lực lượng cách mạng to lớn, cho nên “nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng nửa loài người”[4]…Vì vậy, cũng theo Hồ Chí Minh, giải phóng phụ nữ không chỉ là công việc riêng của phụ nữ mà gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Giải phóng dân tộc là tiền đề để giải phóng phụ nữ, vì nước có độc lập thì người dân mới có tự do; dân tộc được giải phóng thì phụ nữ mới được giải phóng hoàn toàn về chính trị, văn hóa, xã hội…, nhất là có quyền bình đẳng với nam giới trong việc ứng cử, bầu cử, đảm nhiệm các vị trí trong các cơ quan của Đảng và Chính phủ, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội theo Hiến pháp, pháp luật… Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ không chỉ được ghi rõ trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930: “a) Dân chúng được tự do tổ chức. b) Nam nữ bình quyền”[5], mà còn được khẳng định tại Hiến pháp năm 1946: “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết, dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân”[6]…
Giải phóng phụ nữ không chỉ là giải phóng thân thể, giải phóng tư duy, mà chính là giải phóng cho họ về quyền bình đẳng: quyền được tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Xác định một trong những nội dung quan trọng để giải phóng phụ nữ triệt để là thực hiện quyền bình đẳng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng và Chính phủ ta luôn luôn chú ý nâng cao địa vị của phụ nữ. Hiến pháp định rõ “nam nữ bình đẳng” và luật lấy vợ lấy chồng, v.v.. đều nhằm mục đích ấy”[7]; “Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng. Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”[8]; “Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta, phụ nữ đã được giải phóng. Hiến pháp đã quy định rõ quyền bình đẳng của phụ nữ”[9]; “Luật hôn nhân và gia đình có quan hệ mật thiết đến mọi người dân trong nước, đến cả nòi giống Việt Nam ta. Đạo luật ấy làm cho gái trai thật sự bình quyền, gia đình thật sự hạnh phúc”… Tình cảm, sự quan tâm của Hồ Chí Minh với phụ nữ, những điều Người đã nói, đã làm và căn dặn phụ nữ giản dị và dễ hiểu, nhưng trong thực tế: bình đẳng không chỉ là lời nói, là sự hiểu về bình quyền nam nữ một cách máy móc từ trong gia đình đến ngoài xã hội; không chỉ dừng ở việc phân công cho hai giới những công việc như nhau, với khối lượng bằng nhau mà chính là sự bố trí khoa học, thỏa đáng, phù hợp với sức khỏe, thể chất và chức năng của mỗi giới…
2. Cùng với việc Đảng và Nhà nước đề ra những chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp để giải phóng phụ nữ, phát huy mọi khả năng, tiềm năng của người phụ nữ, thì muốn thực sự được giải phóng và tự giải phóng mình, mỗi người phụ nữ phải tự đấu tranh với bản thân mình, biết tôn trọng mình thì sự giải phóng đó mới hoàn toàn và triệt để tự. Theo đó, mỗi người phải tự mình nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu; phải xóa bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí khí tự cường, tự lập; “phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần giúp đỡ lẫn nhau”[10], “phải tự mình phấn đấu giữ gìn quyền bình đẳng đối với đàn ông”; phải tích cực tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đóng góp sức mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng.
Một trong những điều kiện giúp phụ nữ thấu hiểu sâu sắc quyền lợi và nghĩa vụ của mình, có thể tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội chính là sự nỗ lực, không ngừng học tập, phấn đấu để nâng cao trình độ, làm giàu tri thức cho mình. Việc trước tiên là thực hiện xóa nạn mù chữ, vì “mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà… Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là lúc các chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu và ứng cử”[11]. Không chỉ động viên nhân dân và phụ nữ cố gắng học tập văn hoá, Hồ Chí Minh còn lấy những tấm gương của phụ nữ Liên Xô, Trung Quốc để động viên, khích lệ phụ nữ Việt Nam, giúp họ xoá bỏ mặc cảm tự ti, tự mình phấn đấu vươn lên… Tiếp đó là xóa bỏ mọi định kiến hẹp hòi, mọi hủ tục, các tệ nạn xã hội, tàn dư của tư tưởng coi thường phụ nữ từ chế độ phong kiến thực dân để lại: “Giải phóng đàn bà đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến tư sản trong người đàn ông”; “phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công”[12]…Theo lời Người, giải phóng phụ nữ toàn diện, đồng bộ và triệt để là một cuộc cách mạng không phải ngày một ngày hai, hơn nữa trọng nam khinh nữ vốn là một thói quen hàng nghìn năm để lại, đã in sâu vào trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội, do đó không thể dùng vũ lực mà tranh đấu và phải tiến hành thường xuyên, triệt để, với sự tham gia của cả xã hội. Trên tinh thần đó, để được giải phóng hoàn toàn, “phụ nữ phải tự mình phấn đấu giữ gìn quyền bình đẳng với đàn ông”[13]; phải góp sức tạo dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xóa bỏ cái xấu, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè và các hủ tục lạc hậu, xây dựng nếp sống mới vệ sinh, khoa học; cải thiện quan hệ gia đình giữa vợ và chồng, giữa mẹ chồng với nàng dâu…
Thực hiện bình đẳng cho phụ nữ là sự phân công một cách hợp lý công việc đến từng người, tuỳ theo khả năng, hoàn cảnh cá nhân và sức khoẻ. Sự bình đẳng phải được thể hiện trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trong đó, khi bố trí công việc cho phụ nữ, các cấp uỷ đảng, các ngành phải căn cứ vào trình độ của từng người và hết sức giúp đỡ họ; đào tạo, bồi dưỡng và bố trí để phụ nữ công tác trong những lĩnh vực phù hợp với sức khỏe và những phẩm chất, khả năng của mình. Hồ Chí Minh cho rằng, việc chị em phụ nữ tham gia vào các cơ quan lãnh đạo các cấp, các ngành là một cố gắng vượt bậc, nhiệm vụ của Đảng phải quan tâm giúp đỡ họ thường xuyên, không phải đề bạt cán bộ nữ vào cơ quan lãnh đạo cốt để đạt cơ cấu có nam, có nữ mà phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ. Vì vậy, phải bằng các hình thức thích hợp đào tạo và bồi dưỡng họ trở thành những cán bộ giỏi đủ sức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Người nhận thấy cán bộ nữ có nhiều ưu điểm, “ít mắc tệ tham ô, lãng phí, không hay chè chén, ít hống hách, mệnh lệnh như một số cán bộ nam”[14]. Những ưu điểm đó xuất phát từ đặc điểm tâm lý, đức tính tốt đẹp của phụ nữ là cẩn thận, chu đáo, tiết kiệm trong chi tiêu, gần gũi với quần chúng... Bố trí cán bộ nữ vào đúng những vị trí, chức vụ phù hợp với khả năng, chị em phụ nữ sẽ có điều kiện để phát huy năng lực của mình. Cũng theo lời Người, “hiện nay, có nhiều phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ở cơ sở. Nhiều người công tác giỏi. Có cháu gái làm chủ nhiệm hợp tác xã toàn thôn, không những hăng hái mà còn làm tốt. Các cháu gái ở hợp tác xã thường có nhiều ưu điểm; ít mắc tệ tham ô, lãng phí, không hay chè chén, ít hống hách, mệnh lệnh như một số cán bộ nam”…
Góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, hăng hái và dũng cảm cùng cả nước trường kỳ kháng chiến, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam gánh vác và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình ở hậu phương để động viên chồng, con ra tiền tuyến, yên tâm đánh giặc, đi đầu trong các cuộc đấu tranh chính trị ở miền Nam, chống lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ những năm kháng chiến; đầy nhiệt huyết, năng động, sáng tạo, “giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong thời kỳ xây dựng CNXH, đổi mới và hội nhập… đã làm ngời sáng những phẩm cách cao quý “Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang” trong mọi lĩnh vực công tác.
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng tư tưởng của Người về giải phóng phụ nữ trong các trước tác để lại vẫn luôn được thực hiện sinh động trong thực tiễn. Không chỉ được khẳng định trong các bản Hiến pháp, các đạo luật: Luật Hôn nhân gia đình (sửa đổi), Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình…; nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng về phụ nữ như Chỉ thị 44, Chỉ thị 37/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII “Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”, nhất là Nghị quyết số 11/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa X) “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã chú trọng việc nâng cao nhận thức về công tác phụ nữ và bình đẳng giới; xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ... Trong đó, việc “nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ” đã không chỉ thể hiện rõ sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp về giới của những người phụ nữ Việt Nam “ba đảm đang” mà còn khẳng định sự đóng góp của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thiết thực đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, những năm qua, tỷ lệ cán bộ nữ được đưa vào quy hoạch cấp ủy và các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp tăng; số cán bộ nữ được đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ ngày càng nhiều, trình độ năng lực được nâng lên rõ rệt, từng bước đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế. Theo số liệu của Ban Tổ chức Trung ương, nữ trí thức tiếp tục tăng cả về số lượng, chất lượng và được trẻ hóa, chiếm gần 30,5% số người có trình độ thạc sỹ, 17,1% số người có trình độ tiến sỹ; tỷ lệ nữ giáo sư chiếm 5,1%, phó giáo sư 11,7%. Tỷ lệ nữ giảng viên, các chức danh khoa học tăng tương đối đều. Phụ nữ tham gia ngày càng chủ động, tích cực vào các hoạt động khoa học - công nghệ; nhiều công trình nghiên cứu làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất và hoạt động thực tiễn đem lại lợi ích kinh tế - xã hội. Trong khi đó, phụ nữ tham gia cấp uỷ Đảng các cấp tăng, ở Trung ương tỷ lệ nữ ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khoá XI có 15 đồng chí, chiếm 8,6% (tăng 4,4% so với khoá X)… Dự Đại hội XII của Đảng có 194 đại biểu là nữ; trong số các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII có 10% nữ; trong số các ủy viên Bộ Chính trị khóa XII có 3 đồng chí nữ… Ở Quốc hội, nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội 25,8%; khoá XIII, tỷ lệ nữ là 24,4%, giảm 1,4% so với khoá trước. Nhiệm kỳ 2011-2016, tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh đạt 25,2%, cấp huyện 24,6% và cấp xã 21,7%, tỷ lệ ở cả ba cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước, nhưng càng xuống cấp dưới tỷ lệ nữ càng giảm. Trong các cơ quan Nhà nước các cấp: Phó chủ tịch nước 1 đồng chí. Nữ giữ chức vụ bộ trưởng 2/22 (9%). Nữ thứ trưởng 13 đồng chí (9%, tăng so với khoá trước 3,6%); tỷ lệ nữ vụ trưởng của cơ quan bộ và ngang bộ là 9,9%, nữ phó vụ trưởng là 20,7%...
Bên cạnh những kết quả đạt được, có thể thấy, Việt Nam đã đạt được tiến triển trong thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng giới, nhưng vẫn còn gặp nhiều thách thức trong việc nâng cao vai trò lãnh đạo của phụ nữ trên lĩnh vực chính trị và kinh tế. Tuy nhiên, với tỷ lệ nữ không cao trong các cơ quan quản lý nhà nước, vai trò của phụ nữ trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị còn hạn chế. Ở nhiều nơi, tình trạng thiếu việc làm, thu nhập thấp trong lao động nữ vẫn diễn ra. Nhiều người do thiếu được đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề nên bị loại khỏi dây chuyền sản xuất; cơ may kiếm được việc làm rất khó khăn... Sức khỏe của nhiều phụ nữ giảm sút; thiếu và mù chữ luôn là nỗi xót xa của phụ nữ vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Tệ nạn xã hội phát triển, những hủ tục lạc hậu tái diễn ở nhiều nơi, tệ trọng nam khinh nữ, phân biệt đối xử vẫn diễn ra ở nhiều nơi trong xã hội, trong khi đó bản thân nhiều phụ nữ cũng tự ti, an phận, thiếu ý chí vươn lên… Đó là những hạn chế, không những làm ảnh hưởng đến sự nghiệp phát triển và bình đẳng phụ nữ mà còn tác động không tốt đến việc thực hiện các mục tiêu tiến bộ xã hội của quốc gia.
Để tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ, khắc sâu lời dạy và thực hiện tâm nguyện của Hồ Chí Minh về việc tất yếu phải giải phóng “một nửa thế giới”, mục tiêu thiên niên kỷ quốc gia đã ưu tiên phát triển bền vững nguồn lực phụ nữ. Trong đó, việc tăng cường giáo dục, đào tạo, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về mọi mặt, trình độ nghề nghiệp và năng lực quản lý kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường cho phụ nữ; hỗ trợ phụ nữ làm kinh tế, tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo; đẩy mạnh các chương trình chăm sóc sức khỏe phụ nữ và trẻ em, cải thiện môi trường sinh hoạt tại từng địa phương; tạo điều kiện để chị em tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; củng cố Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực sự vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ nữ… đã tạo thuận lợi để phụ nữ Việt Nam luôn từng bước vươn lên và ngày càng khẳng định vị thế của mình trong xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
TS. Văn Thị Thanh Mai
---------------
[1] Hồ Chí Minh với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb. CAND, H, 2000, tr.697
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1996, t.6, tr.431- 432.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.2, tr.443.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr.532.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 440-441.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.10, tr.85.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.10, tr.296.
[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.10, tr.661.
[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.10, tr.518.
[11] Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb. Phụ nữ, H, 1970, tr.21.
[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.6, tr.432.
[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.12, tr.195.
[14] Hồ Chí Minh, Về Đảng cầm quyền, Nxb.Sự thật, H, 1986, tr.165.