Xuất
phát từ tình yêu thương vô hạn đối với nhân dân và sự gắn bó mật thiết
với đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tư
duy, tầm nhìn bao quát trong xử lý vấn đề dân tộc và mối quan hệ dân tộc
ở một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam. Người rất coi trọng và thường
xuyên nhắc nhở Đảng, Chính phủ quan tâm đến việc ban hành và tổ chức
thực hiện tốt chính sách dân tộc nhằm phát triển toàn diện kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội; thực hiện đoàn kết dân tộc, giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, xây dựng và củng
cố mối quan hệ giữa các dân tộc ngày càng bền chặt, tạo nên sức mạnh
tổng hợp, to lớn cho cộng đồng các dân tộc Việt Nam xây dựng nước độc
lập, thống nhất.
Thực
hiện chính sách dân tộc là quá trình đưa chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, đến với người dân để chủ trương của
Đảng, mong muốn của người dân được cụ thể hóa thành lợi ích vật chất xã
hội(1). Quá trình triển khai những chủ trương, định hướng của
Đảng về vấn đề dân tộc vào đời sống xã hội, trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế và quốc phòng, an ninh, nhằm
hiện thực hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề
dân tộc và phù hợp với những định hướng trong hệ thống quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, điều kiện bảo đảm thực hiện chính sách dân tộc, bao gồm:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước cần có các chính sách đặc thù, phù hợp, ưu tiên, tương trợ, giúp đỡ phát triển vùng DTTS
Theo
Hồ Chí Minh, để phát triển vùng DTTS thì trách nhiệm quan trọng thuộc
về Đảng, Nhà nước. Người cho rằng, Đảng, Nhà nước phải có biện pháp ưu
tiên, chăm lo bồi dưỡng đồng bào DTTS, chú ý đến đồng bào vùng cao và
giúp đồng bào nhiều hơn nữa, có như vậy mới thực hiện tốt vấn đề dân
tộc. Người yêu cầu: “các cơ quan trung ương phải có kế hoạch đẩy mạnh phong trào miền núi lên, về kinh tế cũng như về văn hóa, tất cả các mặt”(2).
Đồng thời, trong quá trình tổ chức thực hiện phải làm dần từng bước,
thiết thực, cụ thể, hiệu quả, làm bước nào chắc bước ấy. Người nhắc nhở:
“Trung ương Đảng và Chính phủ, mà trực tiếp là các cấp ủy đảng, các
ủy ban địa phương, các cô, các chú, phải làm sao nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc”(3). Như vậy, việc “săn sóc, giúp đỡ nhiều hơn nữa đối với đồng bào rẻo cao về mọi mặt”(4) là trách nhiệm của các tổ chức đảng và chính quyền các cấp.
Tuy
nhiên, muốn thực hiện tốt chính sách dân tộc, đoàn kết dân tộc cần am
hiểu về đặc điểm vùng dân tộc, về đồng bào DTTS, bởi mỗi DTTS đều có bản
sắc, nếp sống, tâm lý, tiếng nói riêng rất đa dạng và phong phú. Đối
với vùng DTTS, việc đề ra biện pháp, tìm ra bước đi thích hợp trong từng
hoàn cảnh cụ thể có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết, quyết định
đến sự thành công của chính sách dân tộc. Vì vậy, các chính sách được
ban hành phải chứa đựng những nội dung, biện pháp và bước đi thích hợp,
phù hợp với đặc trưng, điều kiện của vùng và đồng bào DTTS, trong đó hết
sức tôn trọng lợi ích, văn hóa, truyền thống, tiếng nói, chữ viết,
phong tục tập quán v.v.. của đồng bào.
Hồ
Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh: “Miền núi đất rộng người thưa, tình hình
vùng này không giống tình hình vùng khác. Vì vậy, áp dụng chủ trương và
chính sách phải thật sát với tình hình thực tế của mỗi nơi. Tuyệt đối
chớ rập khuôn, chớ máy móc, chớ nóng vội”(5). Người chỉ rõ,
các chương trình, kế hoạch công tác phát triển vùng dân tộc không những
phù hợp với đồng bào các DTTS, mà ngay cả cách thể hiện cũng được diễn
tả để đồng bào dễ hiểu, dễ làm theo. Người dạy: “nếu cứ nói nào là làm
“cách mạng xã hội chủ nghĩa”, nào là “tiến lên chủ nghĩa xã hội”, nào là
“xây dựng chủ nghĩa xã hội”, đồng bào các dân tộc thiểu số khó hiểu, ít
người hiểu. Phải nói rõ xây dựng chủ nghĩa xã hội là làm cái gì? Nói nôm na để cho người ta dễ hiểu, hiểu để người ta làm được”(6).
Đồng
thời, cán bộ thực hiện công tác dân tộc phải thấy rõ: “Một tỉnh có đồng
bào Thái, đồng bào Mèo, thì tuyên truyền huấn luyện đối với đồng bào
Thái khác, đồng bào Mèo khác, phải có sự thay đổi cho thích hợp. Bởi vì
đời sống, trình độ đồng bào Mèo và Thái khác nhau, cho nên tuyên truyền
huấn luyện phải khác”(7).
Khi
xác định trách nhiệm của các tổ chức đảng và chính quyền các cấp đối
với sự phát triển của vùng dân tộc và đồng bào các dân tộc, Hồ Chí Minh
chỉ rõ vai trò của đội ngũ cán bộ các cấp, mà trực tiếp là cán bộ các
địa phương, đồng thời xác định trách nhiệm của các ngành, các cấp, các
địa phương và mỗi người dân. Người cho rằng, cán bộ làm công tác dân
tộc, đặc biệt là những người làm ở vùng núi, vùng đồng bào DTTS phải am
hiểu ngôn ngữ, phong tục tập quán, nắm bắt tâm lý, tâm tư nguyện vọng
của đồng bào, do đó: “Cán bộ đi làm việc chỗ nào, phải học tiếng ở đấy”(8), và phải thật sự trọng dân, hiểu dân, gần dân, có trách nhiệm với dân.
Bác Hồ tới thăm Trường thiếu nhi các dân tộc vùng cao Việt Bắc tại tỉnh Thái Nguyên, Ngày 13/3/1960. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Thứ hai, để thực hiện chính sách dân tộc cần chú trọng công tác tuyên truyền, vận động
Để
chính sách dân tộc đạt hiệu quả, cần chú trọng công tác tuyên truyền,
vận động và thực hiện các phương pháp tuyên truyền, vận động đồng bào
các dân tộc một cách phù hợp. Các ngành, các cấp, cán bộ, chiến sĩ đều
có trách nhiệm tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
có kế hoạch để giúp đỡ thiết thực đồng bào miền núi. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Bộ đội, công an, công nhân trong nông trường, lâm trường,
công trường, xí nghiệp, cán bộ thương nghiệp, y tế, các giáo viên và tất
cả cán bộ các ngành phải thấy rằng mỗi người đều phải là người tuyên truyền chính sách của Đảng, của Nhà nước. Và mỗi người cần phải là người tuyên truyền cách cải tiến đời sống của đồng bào như thế nào”(9).
Trong
công tác tuyên truyền, vận động, Hồ Chí Minh yêu cầu đội ngũ cán bộ
phải xác định rõ đối tượng, mục tiêu, nội dung và phương pháp tuyên
truyền sao cho phù hợp, đạt hiệu quả tốt nhất: “Nói chung, công tác
tuyên truyền huấn luyện ở miền núi, các cô, các chú có cố gắng, có tiến
bộ. Nhưng chưa đủ, có thể nói còn phải cố gắng nhiều hơn nữa. Công tác
tuyên truyền phải cụ thể, thiết thực. Tuyên truyền cái gì?
Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì? Tuyên truyền cách thế nào?
Đó là những vấn đề các chú phải tự hỏi, tự trả lời. Chứ không phải chờ
trên gửi tài liệu xuống, rồi theo một, hai, ba, bốn mà làm”(10).
Đối
với Hồ Chí Minh, “Tuyên truyền không cần phải nói tràng giang đại hải.
Mà nói ngắn gọn, nói những vấn đề thiết thực, chắc chắn làm được, để cho
mọi người hiểu rõ và quyết tâm làm bằng được. Cố nhiên không phải làm
một ngày, một buổi mà phải làm từng bước, làm bước nào chắc chắn bước
ấy”(11). Và cần phải thấy rõ “Tuyên truyền huấn luyện phải xuất phát từ chỗ nào? Xuất phát từ nhiệt tình cách mạng, tình thương yêu chân thành đồng bào các dân tộc, từ tinh thần hết lòng phục vụ đồng bào các dân tộc.
Có như thế, mới tìm ra cái đúng cái hay mà làm. Chứ không phải Trung
ương bảo làm, tỉnh bảo làm, thì tôi làm. Tuyên truyền cũng thế, huấn
luyện cũng thế. Phải làm sao dễ hiểu, nói sao để người ta hiểu được,
hiểu để làm. Vì thế nên tuyên truyền phải thiết thực. Không phải tuyên
truyền để mà tuyên truyền, huấn luyện để mà huấn luyện”(12).
Như
vậy, trong tuyên truyền, vận động phải luôn bảo đảm sao cho phù hợp với
trình độ nhận thức của đồng bào các dân tộc; nói thiết thực, nói đúng
lúc, đúng chỗ để đồng bào hiểu, tin và làm được; cán bộ phải học tiếng
dân tộc thì công tác tuyên truyền mới đạt hiệu quả.
Thứ ba, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của cán bộ người DTTS
Cán
bộ người DTTS là lực lượng giữ vai trò nòng cốt trong quá trình xây
dựng và phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào
các DTTS, do đó Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc Đảng, Nhà
nước giúp đỡ tạo điều kiện ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội
ngũ cán bộ DTTS “Phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ miền núi”(13),
để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
nhằm phát triển vùng DTTS và xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Bởi vì, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước có đúng, có tốt đến đâu, nhưng
nếu không có người thực hiện hoặc thiếu sự gắn kết trong khi thực hiện
của đội ngũ cán bộ, của đồng bào các DTTS thì những chủ trương, chính
sách đó không phát huy được tác dụng, hiệu quả, hoặc chỉ đạt được ở mức
độ nhất định.
Theo
Hồ Chí Minh, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ DTTS phải toàn diện,
vừa chú trọng chính trị, vừa chú trọng văn hóa để xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ DTTS vừa có tài, vừa có đức; đồng thời phải phù hợp với
trình độ và đặc điểm của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền. Người căn dặn cán
bộ, học sinh trường Sư phạm miền núi tỉnh Nghệ An: “Ở đây các cháu thi
đua gì? Bác khuyên các cháu học tập tốt. Thế nào là học tập tốt? Học tập
tốt là chính trị, văn hóa đều phải gắn liền với lao động sản xuất,
không học dông dài. Mục đích học là để làm kinh tế, chính trị, văn hóa
đều tiến bộ, các dân tộc đều đoàn kết với nhau. Học để làm gì nữa? Để
xây dựng chủ nghĩa xã hội”(14).
Khi
đánh giá về đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm
đặc biệt và đánh giá rất cao vai trò của cán bộ nữ, trong đó có cán bộ
nữ DTTS. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Cán bộ tuyên giáo miền núi
ngày 31-8-1963, Người khẳng định: “Trong mọi mặt hoạt động cách mạng,
phụ nữ các dân tộc thiểu số đều có đóng góp lớn lao”(15).
Chính vì vậy, Người thường xuyên chỉ đạo các địa phương phải đào tạo và
giúp đỡ phụ nữ các dân tộc, kết nạp thêm nhiều đảng viên nữ để mở rộng
đội ngũ đảng.
Trong
khi coi trọng công tác đào tạo cán bộ người DTTS, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn thể hiện sự quan tâm và đánh giá cao vai trò của đội ngũ cán bộ và
đồng bào người Kinh tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở
vùng DTTS. Người cho rằng: “Cố nhiên cán bộ người Kinh phải giúp đỡ anh
em cán bộ địa phương, nhưng phải làm sao cho cán bộ địa phương tiến bộ,
để anh em tự quản lý lấy công việc ở địa phương, chứ không phải là bao
biện làm thay”(16). Dự báo trước những vấn đề sẽ nảy sinh,
xuất phát từ tâm lý tự ti dân tộc, hẹp hòi dân tộc vẫn tồn tại trong cán
bộ và đồng bào các DTTS tại chỗ, cũng như cán bộ, đồng bào tham gia
phát triển kinh tế - xã hội ở vùng DTTS, rất dễ dẫn đến tình trạng mất
đoàn kết cục bộ, Hồ Chí Minh đặc biệt căn dặn cán bộ và đồng bào đến
công tác, làm ăn ở vùng đồng bào các DTTS phải luôn đặt lên hàng đầu
tinh thần đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Đây
là vấn đề hệ trọng, có tính quyết định đến hiệu quả của việc thực hiện
chính sách dân tộc, xây dựng khối đoàn kết các dân tộc.
Để
phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ vùng đồng bào DTTS, Đảng, Nhà nước
cần bố trí cán bộ người DTTS phù hợp với năng lực, sở trường, tăng cường
tình đoàn kết, giúp đỡ nhau, xem nhau như anh em một nhà, khắc phục
hiện tượng “Cán bộ xuôi lên không yên tâm công tác, muốn về Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định. Như thế là không đúng. Bác đã nói cán bộ là đày tớ của
nhân dân, chỗ nào nhân dân cần đến mình là mình phải đến, bất kỳ chỗ nào
cũng là Tổ quốc, là đất nước, cũng là cương vị công tác của cán bộ”(17).
Người căn dặn: “Phải nhớ rằng Đảng, Chính phủ tin cậy vào cán bộ, nơi
nào khó có cán bộ. Việc gì khó có cán bộ. Vì vậy cán bộ các nơi đến phải
yên tâm, tích cực công tác, phải gương mẫu, phải đoàn kết chặt chẽ,
giúp đỡ cán bộ địa phương được tốt. Vì vậy cán bộ địa phương cùng cán bộ
nơi khác đến phải đoàn kết yêu thương nhau, làm gương cho nhân dân địa
phương”(18).
Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan tâm đến việc phát triển giai cấp
công nhân trong vùng đồng bào DTTS nhằm nâng cao nhận thức, góp phần
chuẩn bị về con người cho sự nghiệp công nghiệp hóa vùng dân tộc. Người
chỉ rõ: “Giai cấp công nhân phát triển trong các dân tộc thiểu số khá
nhiều. Ở các mỏ apatít Lào Cai, mỏ thiếc Cao Bằng, khu gang thép Thái
Nguyên, công nhân người các dân tộc rất đông. Hồi trước, mấy cô bé dân
tộc còn hay xấu hổ. Bây giờ đã lái được xe, lái được máy xúc, không kém
gì công nhân nam giới. Đó là một tiến bộ rất lớn”(19), và yêu cầu “Các hợp tác xã vỡ hoang, các nông trường và lâm trường của Nhà nước, cần phải đoàn kết và giúp đỡ đồng bào địa phương, cần phải làm đúng chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc”(20).
Bác Hồ thăm và chụp ảnh lưu niệm với một gia đình người Dao ở
tỉnh Tuyên Quang trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. (Ảnh: Tư
liệu TTXVN)
Thứ tư, luôn phát huy ý thức tự chủ, tự lực, tự cường, tự vươn lên của đồng bào các dân tộc
Cả
cuộc đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trải qua những năm tháng hoạt động cách mạng, cùng ăn, cùng ở, cùng sống
với đồng bào các dân tộc, nên hơn ai hết Người hiểu rõ tâm tư, tình cảm
và nguyện vọng của đồng bào, thông cảm sâu sắc với các dân tộc, đặc
biệt là các DTTS. Chính vì vậy, Người có niềm tin vào khả năng của đồng
bào các dân tộc, cái gì miền xuôi làm được thì miền núi cũng làm được,
bản thân đồng bào DTTS không ngừng tự nỗ lực vươn lên, không được trông
chờ, ỷ lại vào Chính phủ. Người cũng chỉ rõ, để thực hiện chính sách dân
tộc đạt hiệu quả tốt, cần có động lực và nhu cầu nội tại của đồng bào
các DTTS, từ đó hiện thực hóa được các chính sách dân tộc cho chính đồng
bào.
Hồ
Chí Minh cho rằng, muốn thực hiện chính sách dân tộc đạt hiệu quả tốt,
nhằm thực hiện bình đẳng, đoàn kết thì đội ngũ cán bộ và đồng bào các
dân tộc phải sớm khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi,
tự ti dân tộc. Các dân tộc lớn dễ mắc bệnh kiêu ngạo, còn các cán bộ và
nhân dân địa phương lại dễ coi mình là dân tộc bé nhỏ, dẫn đến tự ti,
mặc cảm, cho rằng cái gì cũng không làm được, rồi không cố gắng. Từ đó,
Người kêu gọi đồng bào các dân tộc phải luôn tự tin vào chính bản thân
mình, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, phấn đấu vươn lên để đạt tới
sự bình đẳng thực tế về mọi mặt.
Để
tạo điều kiện thực hiện bình đẳng thực sự giữa các dân tộc, phát huy
mọi tiềm năng, thế mạnh, truyền thống của đồng bào DTTS, xây dựng khối
đoàn kết toàn dân tộc, bên cạnh sự nỗ lực tự phấn đấu vươn lên của mỗi
dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng của sự tương
trợ, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và của dân tộc đa số với đồng bào các
DTTS, giữa các DTTS với nhau. Người chỉ rõ: “Đã gọi là đoàn kết thì phải
giúp đỡ nhau như anh em trong nhà. Dân tộc nhiều người phải giúp đỡ dân
tộc ít người, dân tộc ít người cần cố gắng làm ruộng. Hai bên phải giúp
đỡ lẫn nhau. Dân tộc đông người không phải giúp qua loa, cũng như dân
tộc ít người không nên ngồi chờ giúp. Một bên ra sức giúp, một bên ra
sức làm. Giúp nhau thì việc gì cũng nhất định làm được”(21).
Người quan tâm, nhắc nhở đội ngũ cán bộ, trong khi xử lý các mối quan hệ
dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc phải có thái độ thận trọng đối
với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tôn trọng tâm lý,
tình cảm của các dân tộc, phải thương yêu, quan tâm đến lợi ích của nhân
dân.
* * *
Để
thực hiện tốt chính sách dân tộc nhằm thúc đẩy đời sống đồng bào các
DTTS ngày càng phát triển, bên cạnh các chính sách ưu tiên của Đảng, Nhà
nước, cần thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò
của cán bộ người DTTS; chú trọng công tác tuyên truyền, vận động và
trên hết bản thân đồng bào DTTS phải không ngừng phát huy ý thức tự chủ,
tự lực, tự cường, tự vươn lên, đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau,
tích cực, tự giác tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển đất
nước. Đây chính là những yếu tố rất cần thiết góp phần thực hiện hiệu
quả chính sách dân tộc ở nước ta, là điều kiện để xây dựng và phát triển
đất nước bền vững./.
ThS. LÊ VĂN ĐIỆN
Trường Chính trị thành phố Cần Thơ
_________________
(1) Xem: Ủy ban Dân tộc: Một số vấn đề về đổi mới xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc, Nxb Chính trị - Hành chính, H, 2013, tr.21.
(2) (3) (4) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (15) (19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.14, tr.169, 166, 163, 161, 159, 168, 168, 159, 169, 159, 158, 164.
(5) (13) (14) (16) (20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.461, 225, 269-270, 225, 460.
(17) (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.212, 212.
(21) Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t.11, tr.533.
(Nguồn: lyluanchinhtri.vn)