Thứ Bảy, 28/9/2024
Nghiệp vụ công tác tuyên giáo
Thứ Hai, 22/3/2010 10:54'(GMT+7)

Quán triệt sâu sắc quan điểm đổi mới về tôn giáo vào việc giải quyết vấn đề tôn giáo hiện nay

Các đoàn khách nước ngoài tham gia Đại lễ Phật đản PL 2552 (2008). Ảnh minh họa

Các đoàn khách nước ngoài tham gia Đại lễ Phật đản PL 2552 (2008). Ảnh minh họa

 

Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo khác nhau đồng thời tồn tại. Chỉ tính riêng 6 tôn giáo lớn, số tín đồ đã lên tới một phần tư dân số. Để động viên được mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào công cuộc đổi mới, không thể không tính đến lực lượng đông đảo này. Trong những năm qua, nhờ có những quan điểm chỉ đạo đúng đắn và những chính sách thích hợp trên lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo cũng như việc thực hiện có hiệu quả những quan điểm, chính sách đó, đồng bào có đạo đã hồ hởi, phấn khởi tham gia một cách tự giác vào quá trình đổi mới. Những thành tựu to lớn trên mọi mặt mà công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua đạt được có sự đóng góp không nhỏ của đồng bào có đạo.

Trong khi thấy rõ thành tựu, ưu điểm như vậy, chúng ta cũng thấy các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng tôn giáo để thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với nước ta. Một số yếu kém trong nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo ở nơi này hay nơi khác, ở lúc này hay lúc khác đã có tác động tiêu cực nhất định tới việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có sức mạnh của các đồng bào có đạo để thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước. Do vậy, tiếp tục đổi mới chính sách đối với tôn giáo trên tiền đề quán triệt sâu sắc hơn nữa thành quả đổi mới nhận thức về tôn giáo vào việc hoàn thiện thêm một bước chính sách tôn giáo, là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách ở nước ta hiện nay.

Trong bài này, chúng tôi giới hạn phạm vi trình bày ở việc nhấn mạnh sự cần thiết phải quán triệt sâu sắc quan điểm đổi mới về tôn giáo vào việc giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

Chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo được xây dựng trên những cơ sở sau đây: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về việc giải quyết vấn đề tôn giáo; nhiệm vụ chính trị cơ bản của từng giai đoạn cách mạng; bối cảnh trong nước và quốc tế, trong đó có thực trạng tình hình tôn giáo; kinh nghiệm trong nước và quốc tế trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.

Xuất phát từ những căn cứ trên và do nhu cầu bức xúc của thực tiễn, ngày 12 tháng 3 năm 2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khoá IX đã ra Nghị quyết số 25-NQ/TW Về công tác tôn giáo. Nghị quyết đã nêu lên 5 quan điểm, chính sách đối với tôn giáo. Những quan điểm, chính sách đó là kết tinh những thành tựu to lớn của chúng ta trong đổi mới nhận thức về tôn giáo, có giá trị chỉ đạo trong việc nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo ở nước ta. Để thực hiện có hiệu quả quan điểm, chính sách của Đảng liên quan tới vấn đề tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi cần lưu ý một số điểm sau:

Một là, cần quán triệt sâu sắc hơn những thành quả đổi mới nhận thức về tôn giáo vào việc xây dựng và thực hiện chính sách đối với tôn giáo

Trở lại di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, chúng ta thấy rõ sự tồn tại khách quan của niềm tin cùng tính đa dạng tất yếu của nó, xem tôn trọng niềm tin nói chung, niềm tin tôn giáo nói riêng thuộc phạm trù tôn trọng quyền con người. Cũng ngày càng nhận ra rằng, không phải mọi tôn giáo đều do giai cấp thống trị tạo ra rồi nhồi nhét vào quần chúng để đầu độc quần chúng nhằm dễ bề cai trị. Từ đó, đi tới thừa nhận rằng, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, nó xuất phát từ chính yêu cầu của bộ phận quần chúng đó. Đã là nhu cầu của nhân dân – dù là một bộ phận, thì Đảng cầm quyền, Nhà nước của dân, do dân, vì dân có nghĩa vụ, có trách nhiệm phải thoả mãn. Đó là một nhận thức mang tính khoa học và cách mạng rất sâu sắc, nó phản ánh đúng tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại của tôn giáo. “Nhu cầu tinh thần” đó là một lợi ích thiết thân của bộ phận quần chúng có đạo mà Đảng và Nhà nước phải chủ động quan tâm chăm lo, bảo đảm. Nếu coi CNXH là một xã hội tốt đẹp thì chúng ta cũng hoàn toàn có cơ sở để nói rằng xã hội đó sẽ không hoàn hảo, nếu còn, dù chỉ là một số người bị phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo. Tôn trọng và bảo đảm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng lành mạnh của quần chúng cũng giống như tôn trọng và bảo vệ sức khoẻ, tự do và mọi quyền khác của con người.

Hơn nữa, thành tựu đổi mới tư duy trên lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo còn cho phép khẳng định rằng: đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Đây là một nhận định mang tính đổi mới rất sâu sắc của Đảng ta. Xuất phát từ tư duy mới đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá VIII đã nhấn mạnh: “Khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện... trong tôn giáo”(1).

Nhân tố văn hoá trong tôn giáo không chỉ là một số gía trị tinh thần chứa đựng trong đó, mà cả những giá trị vật chất của tôn giáo. Văn hóa tôn giáo, trong nghĩa đó, mang nội dung rất rộng. Bảo vệ văn hóa tôn giáo không chỉ là bảo vệ những giá trị văn hoá tinh thần của tôn giáo, mà cả những giá trị vật chất như cơ sở thờ tự, phương tiện hành đạo…

Cùng với bước tiến đó, chúng ta cũng cho rằng tôn giáo còn tồn tại lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Về tính chất chính trị của tôn giáo, chúng ta cũng có đổi mới tư duy hết sức quan trọng, khi xem trong tôn giáo cũng có những gía trị chính trị tích cực: Nó phản ánh khát vọng giải phóng con người; nó biểu thị sự phản kháng của nhân dân đối với chế độ lỗi thời; nếu được phát huy một cách đúng đắn, tôn giáo góp phần động viên nhân dân phát huy mọi tài lực của mình trong quá trình xây dựng xã hội mới; nó hướng con người tới những giá trị nhân văn, nhân bản, hướng thiện, đấu tranh cho bình đẳng, tự do; lên án mọi tội ác – những cái không xa lạ với lý tưởng cộng sản.

Những thành quả đổi mới nhận thức trên đây trong lĩnh vực tôn giáo là cơ sở để hoạch định các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta đối với tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình đổi mới đất nước.

Hai là, cần quán triệt sâu sắc mục tiêu đổi mới chính sách đối với đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo.

Chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề tôn giáo không có mục đích nào khác là, nhờ sự đúng đắn của chính sách đó, khối đại đoàn kết toàn dân tộc - trong đó có gần hai mươi triệu đồng bào theo tôn giáo - nhằm thúc đẩy quá trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng (trong giai đoạn hiện nay là thúc đẩy toàn diện quá trình đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh) được củng cố và tăng cường. Dù tính tới sự tác động của bất kỳ nhân tố nào, chính sách đối với đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo cũng không thể làm ảnh hưởng tiêu cực tới việc đạt mục tiêu đó.

Muốn vậy, cần có sự nhận thức sâu sắc, đúng đắn, toàn diện của nhân dân nói chung, giới tu hành nói riêng, đối với mục đích, yêu cầu, nội dung chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng và ban hành không phải nhằm đối phó với những tình huống trong nước và quốc tế mang tính nhất thời, càng không phải nhằm đáp ứng một số nhu cầu mang tính áp lực nào đó của các thế lực đang ra sức lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để đẩy tới trong việc thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” đối với nước ta, mà nhằm thể chế hoá sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân đã được xác định trong Hiến pháp của chúng ta; bằng cách đó, góp phần củng cố, nâng cao và phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc - không phân biệt có tín ngưỡng tôn giáo hay không có tín ngưỡng, tôn giáo - trong qúa trình tiếp tục đổi mới đất nước.

Ba là, cần quán triệt sâu sắc quan điểm, trong công tác tôn giáo, vừa phải quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống kẻ địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng.

Như vậy là, trên cơ sở thừa nhận tín ngưỡng tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân lao động và đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới, Đảng yêu cầu phải “quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng”. ở đây, sự quan tâm đó được hiểu không phải là sự bị động đối phó, càng không phải sự chiếu cố ban ơn cho quần chúng có đạo, mà là quá trình chủ động chăm lo đến lợi ích thiết thân của bộ phận quần chúng đặc thù này.

Thêm vào đó, việc “giải quyết hợp lý” ở đây cần được hiểu là quá trình chủ động giải quyết một cách sáng tạo, kịp thời, cụ thể, thích hợp với thực tiễn đặt ra ở từng nơi, từng lúc trong khuôn khổ của chủ trương và chính sách chung. Trong đó, tiêu chí quan trọng nhất của “việc giải quyết hợp lý những nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng” là ở chỗ, việc giải quyết đó phải góp phần tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.

Đồng thời với “việc giải quyết hợp lý những nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng”, cũng cần phải “kịp thời đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng”. Đảng và Nhà nước đã nhiều lần khẳng định rằng, chúng ta không chống tôn giáo, mà chỉ chống ai lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng.

Trong khi chú ý kết hợp chặt chẽ giữa “quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng” với việc “kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo”, trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần lấy mặt chủ động “quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng” là mặt chủ đạo. Thực hiện tốt phương diện thứ nhất sẽ tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả phương diện thứ hai.

Bốn là, trong khi xác định nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, cũng không thể không thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt của công tác vận động giới chức sắc tôn giáo.

Xem công tác vận động đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo thuộc phạm trù công tác vận động quần chúng sẽ giúp chúng ta khắc phục một quan niệm không thật chuẩn xác ở một số người, quy công tác vận động tín đồ các tôn giáo vào công tác an ninh xã hội. Nói cách khác, Đảng ta coi quần chúng có đạo là một bộ phận như mọi bộ phận khác trong lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng và Nhà nước ta quan tâm giải phóng họ khỏi âm mưu, thủ đoạn của địch; khỏi sự đè nén của thần quyền, giáo quyền và khỏi sự áp bức, bóc lột của tầng lớp lợi dụng đức tin, tình cảm của tín đồ nhằm nô dịch họ về mặt thể xác cũng như tinh thần.

Công tác vận động quần chúng có đạo cũng là công tác đối với con người. Con người ở đây là con người - công dân - tín đồ. Do vậy, ngoài cái chung như mọi công dân khác, họ có những đặc thù riêng biệt. Mọi tín đồ đều tồn tại trong mối quan hệ song trùng: là công dân, họ phải quan tâm giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật Nhà nước và đạo đức xã hội; là tín đồ, họ phải chú ý tới mối quan hệ giữa giáo luật và đạo đức tôn giáo. Công tác vận động quần chúng có đạo phải làm sao cho giáo luật xích gần lại với pháp luật của Nhà nước, đạo đức tôn giáo xích lại với đạo đức xã hội với tất cả những chuẩn mực lành mạnh, tiến bộ của đạo đức xã hội; làm cho các giá trị đó luôn tác động, chi phối nhận thức và hành vi hoạt động của mọi công dân theo tôn giáo.

Để thực hiện có hiệu quả tư tưởng đổi mới này, phải có phương pháp vận động đúng đắn: tác động đồng bộ vào mọi khâu; chống mệnh lệnh, áp đặt thô bạo; coi trọng việc tuyên truyền, giáo dục, nêu gương; quan tâm giải quyết đời sống hàng ngày của họ.

Giới chức sắc tôn giáo đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quan hệ giữa giáo hội và giáo dân, có tác động rất trực tiếp tới suy nghĩ và hành động của giáo dân.

Là những người có chức năng truyền đạo, quản đạo, hành đạo, chức sắc tôn giáo nắm đầu mối của những quan hệ cơ bản giữa tôn giáo đó và tín đồ, giữa tôn giáo đó với Đảng và Nhà nước, giữa các tôn giáo khác nhau cũng như giữa tôn giáo đó và tôn giáo tương ứng của quốc tế. Nắm được họ là nắm được đầu mối của các quan hệ trên đây. Cho nên, việc làm cho giới này có nhận thức sâu sắc, đúng đắn, có tinh thần nghiêm túc trong triển khai thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta là vấn đề có vai trò cực kỳ quan trọng. Thông qua nhiều hình thức đa dạng và thích hợp, làm cho giới chức sắc thấm nhuần nội dung của chính sách, nâng cao tính tích cực, tự giác của chức sắc trong việc thực hiện chính sách; họ không chỉ lồng nội dung chính sách vào các buổi tuyên truyền, giải thích, giảng đạo mà còn thấm nhuần nội dung chính sách vào ngay giáo luật, giáo lệ, lễ nghi tôn giáo của mình... sẽ nâng hiệu quả thực hiện chính sách lên gấp bội. Đây là một điều kiện hết sức quan trọng. Dẫu ý thức rõ rằng, việc tạo lập được điều kiện như vậy rất không đơn giản, song chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng có thể xác lập được điều kiện đó một cách vững chắc. Đó là vì, đại đa số chức sắc tôn giáo gắn bó với dân tộc, đồng hành với dân tộc trong quá trình đổi mới; họ tin tưởng vào Đảng, Nhà nước ta và niềm tin đó đã được kiểm chứng qua thực tiễn. Tinh thần đó của nhiều chức sắc đã biểu hiện ra qua hành động hằng ngày của họ.

Đội ngũ chức sắc giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống đạo của các tôn giáo; đời sống và hoạt động của họ in đậm dấu ấn vào đời sống và hoạt động của các tôn giáo. Do vậy, để các tôn giáo nói chung, đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng phát huy được vai trò tích cực của mình trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, nhiệm vụ đặt ra cho toàn bộ hệ thống chính trị là phải tập hợp, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc; hướng dẫn cho mọi chức sắc hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật hiện hành của Nhà nước; làm cho chức sắc trong các tôn giáo thể hiện rõ vai trò và trách nhiệm của một chức sắc trong các giáo hội ở một nước độc lập và có chủ quyền.

Muốn vậy, công tác đối với chức sắc tôn giáo cần được định hướng vào việc củng cố và phát triển các xu hướng tiến bộ, cách tân; làm cho giáo hội đồng hành, gắn bó với dân tộc, với cách mạng; làm cho họ trở thành những người tiêu biểu trong việc thực hiện “Tốt đời - đẹp đạo”, “Nước vinh - đạo sáng”...

Năm là, cần hết sức quan tâm giải quyết một số vấn đề bức xúc về kinh tế, văn hoá, xã hội của đồng bào tôn giáo

C.Mác đã từng cảnh báo rằng: Lý tưởng mà xa rời lợi ích, lý tưởng tự bôi nhọ mặt mình. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một lý tưởng cao đẹp – tạo lập và phát huy một động lực mạnh mẽ nhất cho thắng lợi của cách mạng nước ta nói chung, của đổi mới nói riêng. Song, sự đoàn kết là phạm trù tư tưởng – chính trị phải lấy sự thống nhất về lợi ích làm cơ sở. Lợi ích đó rất đa dạng, bao gồm hai loại cơ bản nhất: Lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Đối với đồng bào tôn giáo, ngoài lợi ích được tự do tín ngưỡng, hoằng thịnh tôn giáo, còn cần có đời sống vật chất sung túc.

Đứng trên phạm vi cả nước, nhiệm vụ chính trị trọng đại của cả dân tộc ta lúc này là đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới nhằm sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển và tạo điều kiện để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trên tiền đề có đường lối đúng, việc phát huy cho được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có gần một phần tư dân số theo 6 tôn giáo lớn là một động lực mạnh nhất của quá trình phát triển để đạt mục tiêu vừa nêu. Việc giải quyết vấn đề tôn giáo phải góp phần phục vụ cho nhiệm vụ chính trị căn bản đó. Chính quá trình đưa đất nước tiến tới mục tiêu một nước công nghiệp theo hướng hiện đại sẽ mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, trong đó có tín đồ tôn giáo.

Trong những năm trước mắt, liên quan tới vấn đề vừa nêu, cần đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, đẩy mạnh đô thị hoá. Bởi lẽ, một khi đời sống mọi mặt đồng bào được bảo đảm, thì dù thế lực thù địch bên trong và bên ngoài có muốn gây rối bằng việc lợi dụng vấn đề tôn giáo của đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo cũng không thể thực hiện được.

Sáu là, cần hết sức chú ý mặt chính trị trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo

Sự phức tạp của vấn đề tôn giáo trong những năm gần đây ở một số nơi trên đất nước ta có mối liên hệ rất chặt chẽ với hoạt động chống phá của các lực lượng thù địch trong và ngoài nước để đẩy tới chiến lược “diễn biến hoà bình” đối với nước ta, làm cho vấn đề tôn giáo ở nơi đó mang tính chính trị hết sức đậm nét.

Đối với nhiều loại tôn giáo chân chính thể hiện niềm tin tôn giáo lành mạnh của một bộ phận nhân dân, chúng ta có thể nói tới tính chính trị của nó trên cả hai phương diện: Lành mạnh và không lành mạnh, tích cực và tiêu cực, Do vậy, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta đã có sự phân định rạch ròi giữa mặt tín ngưỡng thuần tuý với mặt chính trị của tôn giáo; cần tác động bằng tất cả những gì có thể để loại bỏ những nhân tố chính trị không lành mạnh của tôn giáo ra khỏi đời sống tâm linh của đồng bào.

Nói như vậy không có nghĩa sẽ dùng bạo lực để loại bỏ nó. Trên lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo cũng như trên lĩnh vực tư tưởng nói chung, không thể quên rằng người ta có thể tiêu diệt một con người, nhưng không thể tiêu diệt được một tư tưởng. Tư tưởng là sự phản ánh của vật chất. Tư tưởng tôn giáo là sự phản ánh một cách hoang đường, hư ảo đối với hiện thực vật chất – tự nhiên và xã hội. Làm mất đi tính hư ảo trong sự phản ánh đó tuyệt nhiên không đơn thuần chỉ là vấn đề lý luận – dân trí…, mà trước hết và chủ yếu là bằng thực tiễn của mình, con người loại bỏ điều kiện vật chất sản sinh ra sự phản ánh hoang đường, hư ảo đó. Xét từ giác độ này, việc cách mạng hóa hiện thực để có thiên đường ngay ở trần thể là con đường có hiệu quả nhất để đạt mục tiêu nói trên.

Bảy là, cần xem giải quyết vấn đề văn hoá tôn giáo là một cơ sở để giải quyết có hiệu quả vấn đề tôn giáo ở nước ta.

Thành quả đổi mới tư duy về tôn giáo không chỉ khẳng định rằng tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân, tôn giáo tồn lại lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhiều quan niệm đạo đức tôn giáo đáp ứng nhu cầu quá trình xây dựng xã hội mới,… mà còn cho phép khẳng định rằng, tôn giáo là một thành tố của văn hoá (hay ít ra cũng khẳng định rằng, trong tôn giáo có những giá trị văn hóa – theo cả nghĩa hẹp lẫn nghĩa rộng của khái niệm “văn hoá”). Sau khi thâm nhập vào đồng bào, tôn giáo cũng có giá trị như vậy. Trong những năm gần đây, giữa văn hoá truyền thống vốn có của nhân dân và văn hoá tôn giáo (trực tiếp là văn hoá trong Công giáo) vừa có mặt thuận chiều, vừa có mặt nghịch chiều. “Thuận chiều” với nghĩa nó góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hoá của nhân dân. “Nghịch chiều” với nghĩa đạo Thiên chúa có thể làm cho một số yếu tố văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc - trong đó có văn hoá tâm linh - bị mai một, bị loại bỏ. Cho nên, trong mức độ nhất định, tình hình đó đã làm xuất hiện sự xung đột giữa hai loại hình văn hoá này. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với đạo Thiên chúa là phải làm sao phát huy mặt thuận chiều, hạn chế, đi tới loại bỏ mặt không thuận chiều nói trên.

Việc quán triệt sâu sắc những đổi mới tư duy trên đây về tôn giáo chắc chắn sẽ có tác động tích cực tới việc vận động đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước trong giai đoạn hiện nay./.

TS. Lưu Thị bích Thu
Trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội

-------------

(1) ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW (khoá VIII), Nxb CTQG, H, 1998, tr.67
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất