Thứ Ba, 1/10/2024
Kinh tế
Chủ Nhật, 25/3/2012 10:19'(GMT+7)

Tái cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế

Tái cơ cấu lại công nghiệp đóng tàu

Tái cơ cấu lại công nghiệp đóng tàu

 1. Vì sao phải tái cơ cấu kinh tế?

Thành công của cải cách kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của nước trong 25 năm qua là rất lớn. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm giai đoạn 2000-2010 là 7,26%, đạt thành tích vượt bậc về xoá đói giảm nghèo. Năm 2011, số hộ nghèo giảm xuống còn khoảng 8%. Cơ cấu kinh tế đã từng bước chuyển đổi tích cực theo hướng hiện đại.

Tuy vậy, thời gian gần đây, nền kinh tế nước ta đang phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Cụ thể là: tăng trưởng GDP tuy vẫn ở mức tương đối cao nhưng đã có xu hướng giảm dần. Giai đoạn 2000-2005 là 7,5%, giai đoạn 2006-2010 là 7%, nếu chỉ tính cho giai đoạn 2008-2010 là khoảng 6%, năm 2011 là 5,9%. Tăng trưởng của nước ta đã mất vị trí cao nhất trong khu vực. Năm 2010 nước ta đứng thứ 5 khu vực và thứ 26 trên thế giới. Năm 2011, nước ta đã đứng thứ tư trong khu vực và thứ 28 trên thế giới. Lạm phát luôn cao hơn nhiều so với mức lạm phát bình quân của nền kinh tế. Từ năm 2007, lạm phát luôn ở mức 2 con số (trừ năm 2009). Các cân đối vĩ mô (gần thâm hụt cán cân vãng lai, thâm hụt tài khoá, dự trữ ngoại tệ quốc gia, chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư xã hội…) chưa vững chắc đã nhiều năm.

Những yếu kém trên do các nguyên nhân cơ bản sau:

Một là, các yếu tố của mô hình tăng trưởng theo chiều rộng (gia tăng vốn đầu tư là chủ yếu) đã đến mức tới hạn, động lực tăng trưởng, tiềm năng tăng trưởng đang giảm dần.

Hai là, cùng với việc duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng theo chiều rộng không còn phù hợp thì chủ trương, chính sách và cách thức quản lý, điều hành nền kinh tế chưa thay đổi kịp thời, chậm khắc phục các điểm nghẽn, kìm hãm gia tăng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp.

Từ tình hình trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra định hướng cơ bản của phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011-2020 là “đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế”; và tháng 10-2011 vừa qua, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định tập trung ưu tiên tái cơ cấu 3 lĩnh vực quan trọng nhất. Đó là: “Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; và tái cơ cấu thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác”.

2. Mục tiêu của tái cơ cấu là gì?

Một là, từng bước và liên tục nâng cao hiệu quả các nguồn lực xã hội, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực để dần trở thành động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế (là phải chuyển tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu).

Hai là, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô một cách vững chắc với lạm phát thấp và các nền tảng vĩ mô vững mạnh.

Ba là, thiết lập phát triển cân đối hợp lý giữa các địa phương, vùng miền trên cơ sở phát huy lợi thế của từng địa phương, từng vùng.

Bốn là, từng bước và liên tục cải thiện, nâng cấp trình độ phát triển các ngành kinh tế nói riêng và nền kinh tế nói chung, qua đó các ngành tỷ trọng công nghệ cao, có giá trị tăng cao từng bước thay thế các ngành công nghệ thấp,… lao động và giá trị gia tăng thấp để trở thành những ngành kinh tế chủ lực của nền kinh tế.

Năm là, tiếp tục tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Sản xuất nông nghiệp chuyển đổi theo hướng hiện đại, tổ chức sản xuất theo kiểu công nghiệp, có năng suất chất lượng cao.

3. Các nguyên tắc chỉ đạo tái cơ cấu kinh tế

Thứ nhất, thực hiện tăng trưởng hợp lý, bền vững và ưu tiên chất lượng tăng trưởng, không phấn đấu để đạt tăng trưởng bằng mọi giá và ngắn hạn mà tăng trưởng phải kèm với các tiêu chí sau:

- Lạm phát giảm dần còn khoảng 9% năm 2012, tiếp tục giảm trong các năm tiếp theo đến mức khoảng dưới 5% hàng năm.

- Tăng trưởng đi kèm với các cân đối vĩ mô vững chắc.

- Tăng trưởng đi liền với xoá đói, giảm nghèo bền vững.

- Tăng trưởng chủ yếu nhờ tăng hiệu quả, thân thiện với môi trường, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn năng lượng.

Thứ hai, thực hiện đồng bộ và thống nhất hệ thống các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới, mở cửa, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư, tiến hành tuần tự, từng bước vững chắc và có hệ thống, vừa triển khai vừa đánh giá rút kinh nghiệm để điều chỉnh, nếu xét thấy cần thiết.

4. Định hướng, giải pháp tái cơ cấu kinh tế

Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công

* Tái cơ cấu đầu tư về bản chất là đổi mới căn bản về các hình thức huy động, phân bổ, quản lý và sử dụng vốn đầu tư xã hội theo định hướng sau đây:

- Huy động hợp lý tổng hợp mức đầu tư xã hội trong mối quan hệ với các cân đối lớn của nền kinh tế, bao gồm cân đối giữa tiết kiệm và tiêu dùng, cân đối tiết kiệm nội địa và đầu tư, cân đối ngân sách, cân đối cán cân thanh toán, nợ công và nợ nước ngoài.

- Giảm đầu tư công trong tổng đầu tư xã hội xuống mức hợp lý đi đôi với tăng cường huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác và cải thiện có hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư công.

- Vốn đầu tư nhà nước, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách, vốn trái phiếu Chính phủ và vốn ODA được ưu tiên phân bổ vào “xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn” và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.

- Tái cơ cấu đầu tư phải được thực hiện đồng bộ với các chính sách khác có liên quan, nhất là chính sách đất đai, chính sách giải phóng mặt bằng, cải cách và phát triển doanh nghiệp, chính sách phát triển thị trường tài chính và thị trường vốn.

* Các giải pháp trước mắt nhằm tập trung khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, đầu tư phân tán và thiếu đồng bộ đã tồn tại từ nhiều năm nay:

- Thực hiện đầy đủ, nhất quán nội dung Chỉ thị số 1794/CT-TTg ngày 15-10-2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ, mà trọng điểm là các biện pháp quản lý liên quan đến phê duyệt dự án và bố trí vốn đầu tư, đảm bảo vốn đầu tư phải được bố trí tập trung để hoàn thành dự án trong thời gian sớm nhất, qua đó giảm thất thoát lãng phí và nâng cao hiệu quả đầu tư, như:

+ Rà soát, sắp xếp danh mục các dự án đầu tư của Nhà nước theo mục tiêu ưu tiên đầu tư, chú ý bố trí vốn cho các dự án trọng điểm, cấp bách, hiệu quả, có khả năng hoàn thành trong năm 2012.

+ “Dồn” vốn đầu tư cho các loại dự án bằng cách: điều chuyển hoặc thu hồi vốn đối với các dự án chậm triển khai không hiệu quả, không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, không ứng trước vốn cho các công trình… Đầu tư dùng cơ chế mở cho các doanh nghiệp tham gia dự án.

+ Xác định rõ trách nhiệm cá nhân. Nếu cá nhân có quyền ký, phê duyệt dự án đầu tư mà không xác định rõ được nguồn vốn, để dự án triển khai kéo dài, gây lãng phí thì cá nhân đó sẽ phải chịu trách nhiệm cả về hành chính và kinh tế.

+ Xác định rõ cơ chế bố trí vốn cụ thể cho các dự án thuộc nhóm A, B, C…

* Các giải pháp trung và dài hạn tái cơ cấu đầu tư công

- Đưa vốn trái phiếu Chính phủ và vốn đầu tư Nhà nước ngoài ngân sách khác vào cân đối ngân sách nhà nước để phản ánh đầy đủ và chính sách thu chi…

- Tập trung vốn ngân sách nhà nước để giải quyết các khâu đột phá chiến lược, gồm: đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, điện, đầu tư cho giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực có trình độ công nghệ, kỹ thuật cao, đầu tư phát triển dịch vụ y tế và phúc lợi xã hội, đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao năng lực quản lý và hiện đại hoá quản lý Nhà nước.

- Bổ sung, sửa đổi cơ chế phân cấp quản lý đầu tư công. Thực hiện công khai hoá, minh bạch hoá thông tin về đầu tư, đồng thời tăng cường thẩm quyền và năng lực của hệ thống giám sát đối với đầu tư công.

- Thực hiện các giải pháp đột phá về nâng cao tính minh bạch, bình đẳng, giảm phí tổn và rủi ro của môi trường kinh doanh, áp dụng các hình thức thu hút đầu tư đa dạng để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế.

Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước

* Vì sao phải tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước

Tính đến tháng 10-2011, cả nước còn 1309 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty với tổng tài sản gần 1.800 nghìn tỷ đồng, vốn chủ sở hữu gần 700 nghìn tỷ đồng, đóng góp khoảng 35% GDP của cả nước, tạo ra 39,5% giá trị sản lượng công nghiệp, 28,8% tổng thu nội địa (không kể thu từ dầu thô và thuế xuất nhập khẩu), bảo đảm việc làm cho khoảng 1,2 triệu lao động với mức thu nhập bình quân từ 3,5-5 triệu đồng/người/tháng.

Như vậy, nhìn tổng thế, các doanh nghiệp Nhà nước nói chung, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước nói riêng trong thời gian qua có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nó đã đảm bảo sản xuất cung ứng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế, có đóng góp quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong nhiều lĩnh vực nhằm ổn định kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.

Tuy vậy, doanh nghiệp nhà nước vẫn có những hạn chế, yếu kém sau:

Thứ nhất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế. Cụ thể, không kể các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô, chính trị - xã hội, thì hiệu quả và sức cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nhà nước còn thấp mặc dù có nhiều lợi thế về nguồn lực. Doanh nghiệp nhà nước phải sử dụng tới 2,2 đồng vốn để tạo ra 1 đồng doanh thu năm 2009. Trong khi đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp FDI chỉ cần 1,2 đồng vốn.

Thứ hai, thực trạng tài chính hiện tại của một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước rất yếu kém, thua lỗ kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro mất cân đối tài chính.

Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành tái cấu trúc lại khu vực doanh nghiệp nhà nước theo quan điểm: tái cấu trúc không phải là hạn chế, làm giảm vai trò của doanh nghiệp nhà nước mà phải là doanh nghiệp nhà nước mạnh hơn, thực sự trở thành nòng cốt của kinh tế nhà nước, góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Tái cấu trúc cả vĩ mô, vi mô, tái cấu trúc theo ngành, lĩnh vực kinh doanh không phân biệt cấp cơ quan quản lý.

Mục tiêu của tái cấu trúc là nâng cao năng lực hoạt động, hiệu quả của sản xuất – kinh doanh, sức cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nhà nước và từng doanh nghiệp nhà nước tương xứng với nguồn lực được giao. Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính, đảm bảo cơ cấu tài chính hợp lý cho sự phát triển lành mạnh và bền vững của doanh nghiệp nhà nước. Đảm bảo cho tập đoàn kinh tế, tổng công ty làm tốt vai trò điều tiết vĩ mô, là đầu tầu định hướng cho sự phát triển trong môi trường cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị trường. Hình thành các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, hầu hết đa sở hữu; đến hết năm 2020, có khoảng 3-5 tập đoàn kinh tế lớn nằm trong số những tập đoàn kinh tế hàng đầu trong khu vực, có 12 tập đoàn kinh tế ngang tầm quốc tế và khu vực Đông Á, 10-15 tập đoàn kinh tế, tổng công ty hàng đầu có vai trò đầu tầu, dẫn dắt, điều tiết kinh tế trong phạm vi quốc gia.

* Các giải pháp

- Thứ nhất, hoàn thiện ban hành tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước theo ngành nghề, lĩnh vực, thực hiện tái cấu trúc các doanh nghiệp hiện có.

Cách thức tái cấu trúc:

+ Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện trên cả phương diện vĩ mô (điều chỉnh lại chính sách, khung pháp lý, phân bổ lại nguồn lực, cơ cấu sở hữu, quản lý của khu vực doanh nghiệp nhà nước) và tái cấu trúc trên cả phương diện vi mô (điều chỉnh lại sở hữu, mô hình, cơ chế hoạt động, quản trị, bố trí lại nguồn nhân lực).

+ Vừa thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước (trên 5 phương diện chủ yếu: ngành nghề, tài chính, quản trị doanh nghiệp, quản lý nhà nước, hệ thống pháp luật) vừa thực hiện tái cấu trúc theo thực thể tại mỗi tập đoàn kinh tế, tổng công ty.

Dựa theo tiêu chí phân loại để sắp xếp doanh nghiệp nhà nước thành 4 nhóm:

Nhóm 1: Các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoạt động trong các ngành, lĩnh vực như: quốc phòng an ninh, hệ thống kết cấu hạ tầng then chốt, các ngành độc quyền mà Nhà nước cần kiểm soát. Nhóm này sẽ thực hiện tái cấu trúc về chiến lược, mô hình tổ chức, quản trị nội bộ, tái cấu trúc tài chính, nhân sự.

Nhóm 2: Các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối tuyệt đối (75% vốn điều lệ) có quyền quyết định các vấn đề quan trọng hoạt động trong những ngành, lĩnh vực sản xuất, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ công ích, các doanh nghiệp bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Nhóm 3: các doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (trên 65% vốn điều lệ) gồm những doanh nghiệp quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao và có vai trò đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế, bình ổn thị trường hoạt động trong các ngành, lĩnh vực.

Nhóm 2 và nhóm 3 này sẽ thực hiện tái cấu trúc trước cổ phần hoá, cổ phần hoá, tiếp tục tái cấu trúc sau cổ phần hoá.

Nhóm 4: các doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối hoặc không nắm giữ cổ phần hoạt động kinh doanh thuần tuý. Nhóm này thực hiện đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước sản xuất doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối. Cổ phần hoá công ty thành viên đồng thời hoặc cổ phần hoá trước công ty mẹ, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.

Các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá trước đây, căn cứ tiêu chí phân loại, áp dụng các giải pháp tương tự nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4.

Các doanh nghiệp nhà nước hiện đang bị thua lỗ kéo dài, không có khả năng hồi phục: thực hiện giải thể, phá sản, mua bán, chuyển nhượng phần vốn.

+ Đối với việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước mới: dừng việc thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước mang tính hành chính. Chỉ thành mới ở một số ngành nghề mới mà nhà nước phải đầu tư mới nắm giữ 100% vốn điều lệ, hoặc giữ cổ phần chi phối (như điện hạt nhân, xổ số điện toán và trò chơi có thưởng).

- Thứ hai, thực hiện nhất quán, đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp.

- Thứ ba, tổ chức sắp xếp và tái cấu trúc từng doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản trị doanh nghiệp.

Trong đó, đặc biệt là chấm dứt tình trạng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty đầu tư ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính trước năm 2015. Nghiêm cấm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty phi tài chính đầu tư vào các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và bất động sản. Ban hành Nghị định về quản trị doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở vận dụng các nguyên tắc, thông lệ quản trị tốt nhất của thế giới về quản trị doanh nghiệp nhà nước.

- Thứ tư, đổi mới, tăng cường quản lý giám sát nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, tổng công ty.

- Thứ năm, tái cấu trúc tạo chuyển biến cơ bản trong tái cơ cấu các công ty nông nghiệp, lâm trường quốc doanh.

Tái cơ cấu các tổ chức tín dụng Việt Nam

* Mục tiêu

Là củng cố, tiếp tục phát triển để đến năm 2020 hình thành được hệ thống các tổ chức tín dụng đa năng theo phương hướng hiện đại, hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về quy mô, sở hữu, loại hình, dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, và quản trị tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, có năng lực cạnh tranh cao hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính – ngân hàng của nền kinh tế.

Về trước mắt và trung hạn đến năm 2015, tập trung lành mạnh hoá tình hình tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng, cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả của các tổ chức tín dụng, nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng.

* Quan điểm

Thứ nhất, đổi mới và phát triển các tổ chức tín dụng mà trọng tâm của 5 năm tới là chấn chỉnh và cơ cấu lại hệ thống các ngân hàng thương mại. Thực hiện tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng phải thực hiện đồng bộ và nhất quán với tái cơ cấu đầu tư công và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.

Thứ hai, củng cố, phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đa dạng về sở hữu, quy mô và loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ của nền kinh tế. Nâng cao vai trò chi phối dẫn dắt thị trường của các tổ chức tín dụng Việt Nam, bảo đảm các ngân hàng thương mại Nhà nước và các ngân hàng thương mại nhà nước nắm cổ phần chi phối thực sự là lực lượng chủ đạo của hệ thống các tổ chức tín dụng, có đủ năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế.

Thứ ba, trong giai đoạn hiện nay, không sử dụng giải pháp phá sản tổ chức tín dụng theo quy định của Luật Phá sản để đảm bảo giữ ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Khuyến khích hợp nhất, sáp nhập, mua lại ngân hàng theo nguyên tắc tự nguyện; bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền, các quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, thực hiện tái cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động và quản trị của các tổ chức tín dụng theo các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp.

Hình thức và biện pháp cụ thể cơ cấu lại tổ chức tín dụng được áp dụng phù hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể của từng tổ chức tín dụng.

Thứ năm, không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng; giới hạn đến mức thấp nhất tổn thất, chi phí xử lý những vấn đề yếu kém của hệ thống các tổ chức tín dụng trong quá trình tái cơ cấu.

* Định hướng các giải pháp

- Thứ nhất: thực hiện đánh giá, phân loại các tổ chức tín dụng để có giải pháp phù hợp. Các tiêu chí để đánh giá là: thực trạng tài chính, hoạt động và quản trị, nhất là về thực trạng về chất lượng tài sản, công nợ, vốn chủ sở hữu và mức độ an toàn (từ các ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng thương mại nhà nước nắm cổ phần chi phối).

Phân loại theo 3 nhóm như sau:

Nhóm 1 gồm các tổ chức tín dụng lành mạnh.

Nhóm 2 gồm các tổ chức tín dụng thiếu thanh khoản tạm thời.

Nhóm 3 gồm các tổ chức tín dụng yếu kém.

- Thứ hai, thực hiện cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém (tức là nhóm 3) trên 4 nội dung theo ba bước. Bốn nội dung đó là lành mạnh hoá về tài chính, cơ cấu lại hoạt động, cơ cấu lại hệ thống quản trị, cơ cấu lại pháp nhân. Ba bước là: Bước 1, bảo đảm khả năng chi trả của từng tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống tín dụng. Bước 2, là thực hiện hợp nhất, sát nhập, mua lại theo nguyên tắc tự nguyện, hoặc theo chỉ đạo của ngân hàng nhà nước trong trường hợp thực sự cần thiết. Bước 3, là cơ cấu lại tài chính, hoạt động quản trị của các tổ chức tín dụng, gồm xử lý nợ xấu, tăng quy mô và chất lượng vốn tự có, cơ cấu lại các danh mục hoạt động, cơ cấu lại hệ thống quản trị phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng.

- Thứ ba là thực hiện tái cơ cấu các tổ chức tín dụng thiếu thanh khoảng tạm thời (tức là nhóm 2) bằng các giải pháp sau:

+ Hỗ trợ thiếu hụt thanh khoản tạm thời để các tổ chức tín dụng loại này trở lại hoạt động bình thường.

+ Các tổ chức tín dụng thực hiện cơ cấu lại, củng cố tài chính, hoạt động và quản trị đảm bảo an toàn và hiệu quả kiinh doanh.

+ Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức tín dụng nhóm này sát nhập, hợp nhất với nhau hoặc sát nhập với các tổ chức tín dụng thuộc nhóm 1 (tức là nhóm hoạt động lành mạnh, hiệu quả).

- Thứ tư, tái cơ cấu đối với các tổ chức tín dụng thuộc nhóm 1 (nhóm hoạt động lành mạnh, hiệu quả) như sau:

+ Các tổ chức này xây dựng và thực hiện phương án tự củng cố, đổi mới hoạt động, quản trị và nâng cao năng lực cạnh tranh.

+ Cơ cấu lại và đa dạng hoá dịch vụ, đổi mới và nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản trị, xử lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng nói riêng và chất lượng dịch vụ nói chung.

+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng loại này nhận xét sát nhập và mua lại các tổ chức tín dụng khác theo nguyên tắc tự nguyện để tăng quy mô hoạt động và năng lực cạnh tranh.

Kế hoạch chung về tái cơ cấu cả ba lĩnh vực trên là Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải bổ sung, hoàn thiện các đề án tái cơ cấu đã được Chính phủ phân công và trình Chính phủ thông qua trong Quý I năm 2012. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, thành phố, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước triển khai thực hiện ngay từ đầu năm 2012 và thời kỳ 2012-2015. Chậm nhất trong Quý I năm 2012, các Bộ quản lý ngành UBND các tỉnh, thành phố, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phải hoàn thành phê duyệt phương án sắp xếp đổi mới, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý.

Tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là nhiệm vụ phức tạp, vừa cấp bách, vừa lâu dài, có thể phải thực hiện trong nhiều năm. Đó là việc dứt khoát phải làm nhưng muốn có thành công, phải có sự phấn đấu của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của nhân dân và phải triển khai đồng bộ ở tất cả các ngành, các cấp, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước./.

Nguyễn Tiến Thoả

Cục trưởng Cục Quản lý giá - Bộ Tài chính

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất