Từ năm 1956, Bộ Quốc phòng đã chuyển
nhiều đơn vị thường trực chiến đấu, với hơn 80.000 cán bộ, chiến sĩ sang
làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, hình thành nông trường trên các địa bàn
trọng điểm tại Điện Biên, Mộc Châu, Tuần Giáo, Nà Sản, Nghệ An, Hà
Tĩnh…; thành lập các đơn vị sản xuất chuyên nghiệp của quân khu và mặt
trận tạo nên thế bố trí chiến lược kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây
dựng hậu phương, khu căn cứ.
Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
quân đội đã chuyển 280.000 cán bộ, chiến sĩ sang xây dựng kinh tế, hình
thành nhiều nông, lâm trường trên biên giới và các địa bàn chiến lược,
thực hiện sản xuất sản phẩm quốc phòng kết hợp với hàng hóa phục vụ dân
sinh, tăng gia sản xuất tại chỗ nâng cao đời sống bộ đội.
Bước vào thực hiện công cuộc đổi mới đến
nay, lực lượng quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế
kết hợp với quốc phòng từng bước được kiện toàn, hình thành các đoàn
kinh tế - quốc phòng ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
Để tạo điều kiện cho quân đội hoàn thành
tốt nhiệm vụ sản xuất xây dựng kinh tế gắn với nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm đầu tư và có cơ chế về đất đai, tài
sản… cho Bộ Quốc phòng.
Quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng đã giao đất quốc phòng để các đơn vị,
doanh nghiệp quân đội quản lý, sử dụng vào mục đích sản xuất, xây dựng
kinh tế gắn với thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; thực hiện ký hợp
đồng sử dụng đất theo phương thức trả tiền sử dụng đất hàng năm, số thu
nộp về ngân sách Nhà nước, cơ chế đó đang được thực hiện cho đến nay.
Các đơn vị quân đội đã tận dụng tiềm
năng đất đai triển khai hiệu quả các mô hình trồng rau, chăn nuôi, xay
xát, chế biến theo hướng cơ bản, thống nhất, bền vững; chủ động tự túc
cây, con giống, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ để giảm công sức
bộ đội, tăng năng suất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Phát
huy thế mạnh của từng đơn vị, địa phương để phát triển tăng gia sản
xuất, trồng rừng, trồng cây công nghiệp, nuôi trồng thủy sản theo hướng
phát triển kinh tế gắn với quốc phòng - an ninh.
Các nhà máy quốc phòng sử dụng đất đai
để tổ chức sản xuất, sửa chữa các loại vũ khí, trang bị khí tài kết hợp
phát triển kinh tế, đáp ứng yêu cầu tác chiến, bảo đảm sẵn sàng chiến
đấu và xây dựng đất nước. Một số ngành như viễn thông, đóng tàu có bước
phát triển vượt bậc, đạt trình độ tiên tiến.
Các doanh nghiệp quân đội trực tiếp phục
vụ quốc phòng an ninh, công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng vừa nghiên cứu
phát triển các công nghệ kỹ thuật mới, sản xuất trang thiết bị cho quân
sự vừa lao động sản xuất, xây dựng kinh tế và kinh doanh có hiệu quả...
đã tạo việc làm cho người lao động, góp phần bảo đảm an sinh xã hội,
xóa đói giảm nghèo, ổn định dân cư ở địa bàn vùng sâu, vùng xa và trên
các địa bàn chiến lược, trọng điểm.
Những năm gần đây, Bộ Quốc phòng đã tích cực chỉ đạo cơ cấu, sắp xếp lại
doanh nghiệp quân đội với mục tiêu, cơ cấu lại nhằm giảm mạnh số lượng
doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, tập trung vào những ngành, lĩnh vực trực
tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; bảo đảm yêu cầu phát triển công
nghiệp quốc phòng của đất nước. Đẩy mạnh thực hiện cổ phần hóa, thoái
vốn đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuần túy, thương mại,
xây dựng, dịch vụ...
Nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng có hiệu
quả khoa học công nghệ 4.0, như Tập đoàn Công nghiệp -viễn thông Quân
đội, Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, Tổng công ty Trực thăng Việt Nam...
Khối doanh nghiệp quân đội hàng năm thu nộp khoảng 41.000 tỷ cho ngân
sách Nhà nước (chiếm xấp xỉ 16% tổng số ngân sách do các doanh nghiệp
Nhà nước thu nộp), tạo ra doanh thu đạt khoảng 5% GDP của đất nước.
Các đoàn kinh tế quốc phòng đã tham gia
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, làm nòng cốt giúp nhân dân xóa
đói, giảm nghèo; hỗ trợ nhân dân địa phương phát triển sản xuất, ổn
định đời sống, góp phần xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trên các
địa bàn trọng điểm, chiến lược.
Sau khi lắng nghe các ý kiến, phát biểu
kết luận buổi làm việc, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã biểu dương sự nỗ
lực, quyết tâm của Bộ Quốc phòng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng
vào mục đích sản xuất, xây dựng kinh tế gắn với nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng; những kết quả đạt được của cán bộ, chiến sĩ toàn quân trong thực
hiện chức năng của đội quân lao động, sản xuất thời gian qua. Đó là sự
nỗ lực, thành quả rất lớn, có ý nghĩa sâu sắc cả về chính trị, kinh tế -
xã hội và quốc phòng an ninh rất đáng trân trọng.
Trong thời gian tới,
Bộ Quốc phòng cần tiếp thu các ý kiến tham gia, hoàn chỉnh các văn bản
để trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định, nhất là các nội dung: Cho
phép các doanh nghiệp trực tiếp làm nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, các
đơn vị, các đoàn kinh tế quốc phòng được sử dụng
đất quốc phòng vào nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế. Kiên
quyết thanh lý, thu hồi các hợp đồng hết thời hạn, sai phạm, không hiệu
quả; các hợp đồng có hiệu quả, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương, đáp ứng yêu cầu quốc phòng cho thực hiện đến hết
thời hạn. Bộ Quốc phòng quản lý chặt chẽ, giữ ổn định tình hình quân
đội, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.
Bộ Quốc phòng phải làm mẫu mực về cổ
phần hóa, thoái vốn, bàn giao đất của các doanh nghiệp thuần túy về xây
dựng, thương mại, dịch vụ và các doanh nghiệp ít liên quan đến nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng cho địa phương để phát triển kinh tế - xã hội và
quản lý theo luật định. Đồng thời nghiên cứu, đề xuất chủ trương, giải
pháp cơ bản, lâu dài để quản lý chặt chẽ, phát huy cao nhất hiệu quả sử
dụng đất quốc phòng vào cả nhiệm vụ quốc phòng và nhiệm vụ xây dựng,
phát triến đất nước, phù hợp với thực tiễn và chức năng nhiệm vụ của
quân đội, không để lãng phí nguồn lực./.
Đức Tuân (VGP)