(TG) - Để xây dựng Đảng, theo Hồ Chí Minh, cũng như mọi công việc khác, “thực hành dân chủ rộng rãi” là phương thuốc để phát huy quyền làm chủ và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong đấu tranh và loại trừ những kẻ thoái hóa, biến chất, quan liêu - những kẻ “miệng nói dân chủ nhưng làm việc theo lối quan chủ”.
“THỰC HÀNH DÂN CHỦ LÀ
CÁI CHÌA KHÓA VẠN NĂNG”
Là Người sáng lập và rèn
luyện Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã
nhận thức sâu sắc rằng, để có
thể đưa sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta đi tới thắng
lợi hoàn toàn, “Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp, phải
thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp của mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng”(1); đồng thời, “bất cứ về
vấn đề nào đảng viên đều phải
hết sức thảo luận và phát biểu ý
kiến, khi đa số đã nghị quyết thì
tất cả đảng viên phải phục tùng
mà thi hành”(2). Để xứng đáng
với vai trò tiền phong, Đảng phải
chú trọng công tác xây dựng
Đảng, thường xuyên tự đổi mới
và chỉnh đốn, trong đó, mọi hoạt
động đều phải tuân thủ Điều lệ
Đảng, nguyên tắc tập trung dân
chủ phải được thực thi và dân
chủ phải được mở rộng.
Về vấn đề trọng yếu này, Hồ
Chí Minh khẳng định, Đảng xây
dựng và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, tức là
thiểu số phải phục tùng đa số,
hạ cấp phải phục tùng thượng
cấp, bộ phận phải phục tùng
toàn thể. Trong đó: “Về lãnh đạo
- Từ tỉnh, huyện đến chi bộ, phải
làm đúng nguyên tắc lãnh đạo
tập thể, cá nhân phụ trách. Nội
bộ phải thật đoàn kết. Mọi việc
đều bàn bạc một cách dân chủ và
tập thể”(3), tức là tập thể lãnh đạo
là dân chủ, cá nhân phụ trách là
tập trung. Kết hợp giữa tập thể
lãnh đạo với cá nhân phụ trách,
đó là dân chủ tập trung; trong
đó, “cá nhân phải phục tùng
đoàn thể, số ít phải phục tùng số
nhiều, cấp dưới phải phục tùng
cấp trên, địa phương phải phục
tùng Trung ương”.
Khẳng định rằng: “Thực
hành dân chủ là cái chìa khóa
vạn năng để giải quyết mọi khó
khăn”(4), Hồ Chí Minh yêu cầu
Đảng phải mở rộng dân chủ để
tất cả đảng viên bày tỏ ý kiến
của mình. Đồng thời, Người
cũng chỉ rõ, để thực hiện “một
là, nguyên tắc đoàn kết nội bộ.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách” thì nhất
định phải “dân chủ nội bộ”. Nếu
tập trung cao mà dân chủ bị hạn
chế, tức là tập trung không trên
nền tảng dân chủ, thì đó là tập
trung quan liêu, độc đoán. Nếu
dân chủ không dưới sự lãnh đạo
tập trung, thì đó là dân chủ vô
tổ chức, vô kỷ luật. Vì vậy, tập
trung luôn phải đi đôi với dân
chủ, tập trung trên nền tảng
dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ
đạo tập trung. Điều này vừa có
ý nghĩa đòi hỏi lãnh đạo tập thể
phải đi liền với trách nhiệm cá
nhân; đồng thời, chống được sự
chuyên quyền, độc đoán, chống
dân chủ hình thức và chống
cả tư tưởng dựa dẫm, ỷ lại của
đội ngũ cán bộ, đảng viên nói
chung, người lãnh đạo, quản lý
nói riêng.
Về thực hành dân chủ, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: “Chế độ
ta là chế độ dân chủ, nghĩa là
nhân dân làm chủ. Đảng ta là
Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả
các cán bộ, từ Trung ương đến
khu, đến tỉnh, đến huyện, đến
xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành
nào - đều phải là đày tớ trung
thành của nhân dân… Do đó mà
lãnh đạo phải dân chủ, thiết
thực, cụ thể và toàn diện. Phải
tránh cách lãnh đạo đại khái,
phiến diện, chung chung”(5)..
Đồng thời, Người yêu cầu mỗi
đảng viên ở bất cứ địa vị nào
cũng phải làm gương thực hành
dân chủ trong công tác, để tạo
điều kiện cho mỗi người và
quần chúng nhân dân phát huy
sáng kiến, nâng cao hiệu quả
công việc. Theo Người, trong
lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn, sở
dĩ trong cán bộ, đảng viên, nhân
dân “ít sáng kiến, ít hăng hái. Đó
là vì lẽ gì? Vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: Cách lãnh đạo của ta
không được dân chủ. Cách công
tác của ta không được tích cực”(6).
Để xây dựng Đảng, theo Hồ
Chí Minh, cũng như mọi công
việc khác, “thực hành dân chủ
rộng rãi” là phương thuốc để
phát huy quyền làm chủ và
trách nhiệm của cán bộ, đảng
viên và nhân dân trong đấu
tranh và loại trừ những kẻ
thoái hóa, biến chất, quan liêu
- những kẻ “miệng nói dân chủ
nhưng làm việc theo lối quan
chủ”. Tuy nhiên, để dân chủ
được thực hành đúng, mỗi cán
bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý, người đứng
đầu mỗi địa phương, cơ quan,
đơn vị đều phải tuân thủ Điều
lệ Đảng, kỷ luật Đảng, dù là ai,
ở cấp bậc nào cũng không được
tự cho mình quyền hơn Đảng,
đứng trên Đảng, lợi dụng chức
vụ và quyền hạn của mình để
trục lợi, lạm dụng quyền lực;
không được hô hào dân chủ,
nhưng làm thì mệnh lệnh, độc
đoán, không được coi dân chủ
như một phương tiện thuận
lợi cho mình, khi cần thì dùng,
không cần thì bỏ.
Trong khi thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ, tự phê
bình và phê bình, kiểm tra và
giám sát, đảng viên ở địa vị càng
cao thì càng phải giữ đúng kỷ
luật của Đảng, càng phải làm
gương dân chủ, phải khiêm tốn,
thành khẩn, không ngăn cản
cấp dưới và quần chúng phát
hiện khuyết điểm của mình, phê
bình mình… Đồng thời, trong
thực hành dân chủ, để phát huy
quyền làm chủ của đảng viên
và nhân dân, mỗi cấp ủy không
những phải bảo đảm cho quá
trình thực hiện dân chủ được
đúng hướng mà còn phải phòng,
ngừa và loại bỏ tình trạng độc
đoán, chuyên quyền, hoặc theo
đuôi quần chúng, hoặc dân chủ
quá trớn. Theo tinh thần của Hồ
Chí Minh, dân chủ phải có tập
trung, phải có lãnh đạo, phải chú
trọng cả công tác cán bộ - công
việc gốc của Đảng và đó là quá
trình điều chỉnh tất yếu làm cho
việc thực hành dân chủ trong
Đảng được đúng hướng.
Những chỉ dẫn này cho thấy,
Hồ Chí Minh không chỉ khẳng
định vai trò, tầm quan trọng
của dân chủ trong thực hiện
các nguyên tắc xây dựng Đảng
Mácxit, nhấn mạnh yêu cầu phải
thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng mà còn chú
trọng phát huy tác dụng của việc
thực hành dân chủ trong mỗi tổ
chức, để phát huy tinh thần và
lực lượng của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong thực
hiện nhiệm vụ chính trị dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Trước khi đi xa, trong Di chúc,
Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong
Đảng thực hành dân chủ rộng
rãi, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình là
cách tốt nhất để củng cố và phát
triển sự đoàn kết thống nhất
của Đảng”(7).
TRONG ĐẢNG “THỰC HÀNH
DÂN CHỦ RỘNG RÃI”
THEO DI HUẤN CỦA NGƯỜI
Trong gần 90 năm qua, dù
phải đối diện nhiều khó khăn,
thử thách, thậm chí bị tổn thất,
nhưng với bản lĩnh chính trị của
một Đảng cách mạng chân chính
được xây dựng theo nguyên tắc
Mácxit, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã luôn coi trọng và thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ,
coi đây là nguyên tắc tổ chức
của Đảng, là nguyên tắc cơ bản
nhất để xây dựng Đảng Cộng
sản thành một tổ chức chặt chẽ,
thống nhất, vừa phát huy sức
mạnh của mỗi cá nhân, vừa phát
huy sức mạnh của tập thể phấn
đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách
mạng đã đề ra.
Thực tế là, việc thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ và thực hành dân chủ rộng
rãi trong Đảng đã tạo điều kiện
để đội ngũ cán bộ, đảng viên
được tự do phát biểu ý kiến của
mình, thảo luận, tranh luận để
tìm ra chân lý, đưa đến sự thống
nhất chung. Qua đó, khắc phục
được sự áp đặt, quan liêu, mệnh
lệnh một chiều; đồng thời, kích
thích mọi khả năng sáng tạo của
mỗi người trong một tổ chức,
góp phần thúc đẩy sự đoàn kết,
thống nhất, tăng cường đồng
thuận; từng bước ngăn chặn
tệ nạn quan liêu, tham ô, tham
nhũng và các biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Bên cạnh những thành tựu
đạt được, tại một số cấp ủy và chi
bộ, nguyên tắc tập trung dân chủ
trong sinh hoạt Đảng bị vi phạm,
chưa được thực hành rộng rãi,
thể hiện ở việc cấp trên ra lệnh
cho cấp dưới, song những quyết
định đó lại chỉ là của một người
hoặc một nhóm người. Hiện
tượng lợi dụng danh nghĩa dân
chủ nhằm hợp thức hóa ý kiến
của lãnh đạo hoặc người đứng
đầu vẫn còn ở không ít cơ quan,
địa phương, đơn vị. Về thực
trạng này, Nghị quyết Trung
ương 4 khóa XII về “Tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã
chỉ rõ: “Việc thực hiện kỷ cương,
kỷ luật của Đảng chưa nghiêm,
còn có biểu hiện “nhẹ trên, nặng
dưới”. Công tác quản lý cán bộ,
đảng viên còn thiếu chặt chẽ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ ở
nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên
tắc tự phê bình và phê bình thực
hiện không nghiêm, chưa có cơ
chế để bảo vệ người đấu tranh
phê bình”...
Để tiếp tục thực hiện dân chủ
rộng rãi trong Đảng, trong thời
gian tới, cấp ủy các cấp cần tập
trung thực hiện những nhiệm
vụ trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức
cho cán bộ, đảng viên về yêu
cầu, bản chất, nội dung của
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đồng thời, các cấp ủy, tổ chức
đảng tiếp tục kiểm điểm nghiêm
túc việc thực hiện nguyên tắc
này một cách toàn diện, sâu
sắc theo đúng tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII về
xây dựng Đảng gắn với Chỉ thị
05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa
XII về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”. Đảm bảo việc
thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ, góp phần thiết thực
xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Hai là, mỗi tổ chức Đảng và
mỗi cán bộ, đảng viên phải là
tấm gương về thực hành dân
chủ trong xây dựng chủ trương,
đường lối của Đảng nói chung,
nghị quyết, chương trình hành
động của mỗi địa phương, cơ
quan đơn vị nói riêng. Đề cao
vai trò gương mẫu của người
đứng đầu, cán bộ lãnh đạo trong
thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ; trong đó, cán bộ giữ
chức vụ càng cao thì yêu cầu
gương mẫu, tuân thủ, phòng,
chống tình trạng xa rời nguyên
tắc tập trung dân chủ càng lớn.
Khuyến khích và bảo vệ cán
bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo,
người đứng đầu dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm,
luôn đặt lợi ích chung lên trên
lợi ích riêng, góp phần phòng
và chống có hiệu quả mọi biểu
hiện xa rời nguyên tắc tập trung
dân chủ.
Ba là, tăng cường thực hiện
dân chủ trong sinh hoạt Đảng,
nâng cao chất lượng sinh hoạt
cấp ủy và chi bộ; tạo điều kiện
để mọi đảng viên, dù ở cương vị
nào cũng được bình đẳng thực
hiện quyền và trách nhiệm của
mình tham gia quyết định công
việc của Đảng, được chất vấn,
tự phê bình và phê bình trong phạm vi tổ chức về hoạt động
của tổ chức đảng và đảng viên
ở mọi cấp; trong đó, có quyền
được thông tin, thảo luận, nêu
ý kiến riêng, được bảo lưu ý
kiến và trình bày ý kiến trong tổ
chức đảng. Thực hiện tốt tự phê
bình và phê bình, tạo điều kiện
thuận lợi, không khí dân chủ để
cán bộ, đảng viên thể hiện quan
điểm của mình về những vấn đề
đang thảo luận, về tự phê bình
và phê bình, phòng, chống, ngăn
chặn tình trạng xa rời nguyên
tắc tập trung dân chủ.
Bốn là, tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát theo chương
trình, kế hoạch và đột xuất gắn với
thực hiện Quy định 102-QĐ/TW
về “Xử lý kỷ luật đảng viên vi
phạm”. Việc kiểm tra, giám sát
phải công khai, dân chủ, khách
quan, thận trọng, chặt chẽ,
đúng nguyên tắc, thẩm quyền,
phương pháp, quy trình, thủ
tục theo quy định của Điều lệ
Đảng và các quy định của Đảng,
theo đúng khoản 1, điều 2, Quy
định 102-QĐ/TW: “Tất cả đảng
viên đều bình đẳng trước kỷ
luật của Đảng. Đảng viên ở bất
cứ cương vị nào, nếu vi phạm
kỷ luật của Đảng đều phải được
xem xét, xử lý kỷ luật nghiêm
minh, kịp thời”.
TS. Đinh Quang Thành
(Bài đăng TCTG số 11/2019)
____________________________________________________
(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự
thật, xuất bản lần thứ 3, H,
2011, t.3, tr.3, 3.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.12, tr.438.
(4), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.15, tr.325, 622.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.13, tr.83-84.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.283.