Mục tiêu cơ bản của chính sách xã hội là bảo đảm ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển, hướng tới sự công bằng, tiến bộ xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân. Chính sách xã hội bao trùm trên mọi mặt của đời sống con người, như: điều kiện lao động, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe… và luôn gắn chặt, phụ thuộc rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế, bản chất chính trị - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Đảng ta khẳng định: “Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước” (1). Đại hội XIII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát tiển xã hội” (2). Chính sách xã hội và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ với nhau. Thực hiện tốt chính sách xã hội là một trong những bảo đảm quan trọng về quyền con người ở nước ta. Quyền con người luôn gắn bó mật thiết với các quyền cơ bản của dân tộc, với quyền công dân; phụ thuộc vào các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, lịch sử, văn hóa, dân tộc. Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết tham gia.
Thực hiện chính sách xã hội chính là quá trình cụ thể hóa quyền con người đã được ghi nhận và bảo vệ trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước cũng như các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Thông qua chính sách xã hội mà quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được bảo đảm ngày càng đầy đủ, hoàn thiện hơn, góp phần tạo động lực to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
|
Hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, ổn định chính trị và chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta đã nhận thức ngày càng cụ thể, đầy đủ hơn tầm quan trọng, mục tiêu và nội dung của việc giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo đảm toàn diện và tốt hơn quyền con người; khẳng định mục tiêu chính sách xã hội là nhằm xây dựng và phát triển con người, đem lại cuộc sống hạnh phúc cho con người, góp phần lành mạnh hóa xã hội và phát triển bền vững đất nước. Với nhận thức đó, Đảng và Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về lĩnh vực xã hội, quản lý xã hội; nguồn lực đầu tư được tăng cường và đa dạng hóa; phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân thực hiện chính sách xã hội, chăm lo, đầu tư cho con người, tạo nguồn lực cho sự phát triển bền vững đất nước. Có thể nhận thấy, chính sách xã hội ở nước ta được triển khai tích cực, toàn diện, với hệ thống văn bản pháp lý khá đồng bộ, ngày càng hoàn thiện; phản ánh tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân và đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng trong việc chăm lo cho con người, bảo đảm thật sự cho con người Việt Nam có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc, được thể hiện rõ ở các nội dung sau đây:
Một là, các chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển biến theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ luật Lao động ban hành năm 1994 được sửa đổi nhiều lần (2002, 2006, 2007, 2012 và 2019) đã tạo hành lang pháp lý cho việc hoàn thiện các tiêu chuẩn lao động, thiết lập quan hệ lao động giữa các chủ thể, điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến quan hệ lao động, như: hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền lương, bảo hiểm xã hội, thời gian làm việc, vệ sinh lao động, kỷ luật lao động, giải quyết tranh chấp lao động, đình công… Việc xây dựng, triển khai thực hiện Luật Việc làm 2013 và Chương trình việc làm đã góp phần định hướng nghề nghiệp, ổn định và phát triển thị trường lao động ở Việt Nam. Giai đoạn 2016 -2020, giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Chất lượng lao động qua đào tạo không ngừng tăng từ 51,6% lên 64,5%, trong đó, tỷ lệ qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ 20,29% lên 24,5% vào cuối năm 2020; cơ cấu ngày càng phù hợp hơn với thị trường lao động. Đến năm 2025, tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%; tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70% (3).
Hai là, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán về chính sách giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu chính đáng, hợp pháp. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, những năm qua, nước ta thường xuyên chú trọng chính sách giảm nghèo đa chiều và khắc phục nguy cơ tái nghèo, nhất là đối với các huyện, xã nghèo, ở khu vực biên giới, biển, đảo có nhiều khó khăn; thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã hội so với bình quân cả nước. Đồng thời, tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo theo từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 58,1%, đến năm 2014 giảm xuống còn 5,8 - 6%; đến cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 2,75%, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã An toàn khu vùng dân tộc và miền núi giảm khoảng 3-4%/năm; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 4%/năm. Thu nhập bình quân hộ nghèo đến cuối năm 2020 tăng gấp 1,6 lần so với năm 2015. Hằng năm, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện có hiệu quả Chương trình “Cả nước chung tay vì người nghèo”. Diện mạo nghèo đói ở tất cả các vùng miền trên cả nước đã được cải thiện đáng kể. Việt Nam đã hoàn thành, về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc về giảm nghèo được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Phấn đấu thực hiện, đến năm 2025, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1-1,5%/năm (4).
Ba là, thường xuyên chú trọng việc quan tâm thực hiện chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ. Hệ thống cơ sở y tế đã được hình thành trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh; hệ thống dịch vụ y tế ngày càng mở rộng và nâng cao chất lượng. Trong 10 năm gần đây, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và nhiều luật liên quan đến lĩnh vực y tế, dân số, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc chăm sóc sức khỏe nhân dân. Các chủ trương, giải pháp phát triển hệ thống y tế tương đối toàn diện, coi trọng cả về xây dựng thể chế và phát triển đồng bộ: y tế dự phòng, y học cổ truyền, quản lý thuốc, khám, chữa bệnh, phòng chống dịch, phục hồi chức năng, vệ sinh an toàn thực phẩm, chăm sóc sức khỏe nhân dân có bước phát triển, tiếp cận được nhiều kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong phòng chống dịch Covid-19; tỷ lệ bảo hiểm y tế đạt trên 90% dân số. Phấn đấu đến năm 2025, tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số, có 10 bác sĩ và 30 giường bệnh trên 1 vạn dân (5).
Bốn là, chính sách ưu đãi người có công được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và ngày càng mở rộng đối tượng, mức thụ hưởng với chế độ ưu đãi toàn diện hơn. Cả nước hiện có hơn 9,2 triệu người có công, chiếm khoảng 10% dân số, được hưởng chính sách ưu đãi. Hàng nghìn bà mẹ Việt Nam anh hùng đang được phụng dưỡng. Mức sống của gia đình người có công được đảm bảo bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư nơi cư trú trên địa bàn. Cùng với chính sách ưu đãi người có công, các đối tượng tham gia các thời kỳ kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (quân nhân, thanh niên xung phong, dân quân du kích, dân công hỏa tuyến…) tiếp tục được hưởng các chế độ, chính sách và hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng. Các thiết chế chăm sóc người có công, thương binh, bệnh binh, tri ân các anh hùng, liệt sĩ ngày càng hoàn thiện và được quan tâm đầu tư. Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được chú trọng, thể hiện tinh thần “Hiếu nghĩa bác ái”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” là đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Năm là, xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện, đa dạng, ngày càng mở rộng, hiệu quả. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo kết hợp với xã hội hóa, mở rộng sự chia sẻ của cộng đồng; đồng thời, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp), khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia. Đến cuối năm 2020, cả nước có hơn 15 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc;1,1 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và hơn 13,3 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Hệ thống an sinh xã hội không ngừng phát triển phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khả năng huy động và cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; trong đó, ưu tiên những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Chính sách bảo trợ xã hội được xây dựng và từng bước hoàn thiện, đối tượng hưởng đa dạng, mức hưởng ngày càng nâng lên; mở rộng các hình thức cứu trợ xã hội, giảm thiểu rủi ro do đại dịch Covid-19, hộ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, góp phần bảo đảm đời sống, an sinh cho người lao động, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Sáu là, từng bước bảo đảm cung ứng với chất lượng ngày càng cao hơn một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân. Người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số được bảo đảm nhu cầu tối thiểu về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin. Nhà nước đã quan tâm xây dựng, thực hiện chiến lược phát triển nhà ở quốc gia và chương trình xóa nhà tạm, phát triển nhà ở xã hội; cùng với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chung tay chăm lo về nhà ở cho người nghèo “Nhà đại đoàn kết”, làm ấm lòng, tình người lắng đọng tinh thần đoàn kết trong cộng đồng ngày càng được phát huy, lan tỏa. Nhà nước xây dựng, ban hành và thực hiện nhiều chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, chăm sóc bà mẹ và trẻ em, hôn nhân và gia đình, chăm sóc người cao tuổi, phòng, chống tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình; tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo; tăng cường đầu tư về kết cấu hạ tầng, giao thông, kinh phí cho miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; chú trọng bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các dân tộc và các tôn giáo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bảy là, Việt Nam nhất quán thực hiên chính sách xã hội, an sinh xã hội gắn chặt với chính sách tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Việt Nam không ngừng nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, tham gia các điều ước quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Tính đến năm 2021, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 8/9 Công ước cơ bản của Liên Hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế(ILO), trong đó có 7/8 Công ước cơ bản. Việt Nam đã có những đóng góp tích cực thành lập Uỷ ban liên Chính phủ ASEAN về nhân quyền, Uỷ ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của phụ nữ và trẻ em, thông qua tuyên bố Nhân quyền ASEAN. Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016, đã và đang đóng góp nhiều giá trị vào sự tiến bộ của nhân loại trong bảo vệ quyền con người (6).
Những kết quả đặt được về chính sách xã hội trong thời gian qua thể hiện sự nỗ lực vượt bậc của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, đã góp phần quan trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là những người có công, gia đình chính sách. Đồng thời, phản ánh truyền thống nhân nghĩa, nhân văn của dân tộc và bản chất của chế độ ta luôn lấy con người làm trung tâm, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, phù hợp với điều kiện của đất nước trong công cuộc đổi mới, tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đưa nước ta ngày càng phát triển, tiến nhanh, tiến vững chắc trên con đường xã hội chủ nghĩa và ngày càng khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế trong việc thực hiện, bảo vệ và chăm lo quyền con người. Chúng ta có đủ cơ sở để bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động cho rằng quyền con người ở Việt Nam không được bảo đảm, không được tôn trọng. Quyền con người mặc dù mang giá trị phổ quát, nhưng việc bảo đảm quyền ấy đến đâu, đến mức độ nào còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, tôn giáo và phong tục tập quán của mỗi nước, mỗi quốc gia, dân tộc. Vì vậy, không thể đem điều kiện của nước này áp đặt vào quyền con người của nước khác để so sánh khập khiễng và phê phán một cách máy móc, giáo điều là không những không phù hợp với thực tiễn và dư luận quốc tế mà còn vi phạm nhân quyền, hơn thế là quyền của một quốc gia - dân tộc. Việt Nam không phủ nhận trong thực hiện bảo đảm quyền con người còn có mặt hạn chế thực hiện chính sách xã hội, như: Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu-nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập; chất lượng dịch vụ y tế, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, có mặt còn bất cập. Chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội có mặt còn hạn chế; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hòa; nhưng nhìn nhận một cách tổng thể thì mặt được, mặt ưu việt là chủ yếu thể hiện rõ trong từng chính sách xã hội mà Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị thực hiện trong hơn 77 năm qua là rất đáng trân trọng, thực sự đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Để bảo đảm quyền con người ở nước ta ngày càng tốt hơn, trong thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền, các ngành và địa phương tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về chính sách xã hội đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, bám sát mọi mặt đời sống xã hội, gắn bó mật thiết với nhân dân để phát triển con người toàn diện có tài năng, trí tuệ, phẩm chất, đạo đức của con người Việt Nam, thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
TS. Nguyễn Văn Hùng,
Ban Thư ký Khoa học, Hội đồng Lý luận Trung ương