Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm đang trên đà phát
triển, nhưng vẫn còn rất khiêm tốn so với nhu cầu của thị trường nội địa
lẫn xuất khẩu. Với dư địa sản xuất thực phẩm còn rất lớn, nhiều nhà đầu
tư ngoại đã không bỏ lỡ cơ hội tham gia vào lĩnh vực này.
Tiềm năng lớn
Mới
đây, trong cuộc chào bán cạnh tranh cổ phần Vinamilk chỉ có 2 nhà đầu
tư là F&N Dairy Investment Pte Ltd và F&N Bev Manufacturing
PTE.Ltd tham gia. Trước đó, F&N Dairy Investment đang là cổ đông
ngoại lớn nhất của Vinamilk, sở hữu 11% vốn điều lệ. Sau phiên đấu giá
ngày 12/12, F&N đã nâng tỷ lệ sở hữu tại Vinamilk lên 16,4%. Tuy
nhiên, điều đáng quan tâm là cả hai nhà đầu tư trên đều chung một chủ là
tỷ phú Thái Lan Charoen Sirivadhanabhakdi. Điều này cho thấy, nhà đầu
tư ngoại Thái Lan rất đang muốn trở thành một cổ đông lớn sở hữu ngành
thực phẩm đồ uống đang có tên tuổi và thế mạnh tại Việt Nam.
Không
chỉ nhà đầu tư đến từ Thái Lan, nhiều nhà đầu tư ngoại khác cũng đang
muốn “thâu tóm” các DN Việt liên quan đến lĩnh vực công nghiệp chế biến
thực phẩm. Điển hình như Tập đoàn CJ Cheil Jedang (CJ) của Hàn Quốc vừa
chính thức nắm gần 50% cổ phần của Công ty chế biến hàng xuất nhập khẩu
Cầu Tre. Trước đó Tập đoàn thực phẩm Daesang Corp của Hàn Quốc cũng rót
33 triệu USD để mua lại 13 triệu cổ phiếu của Công ty thực phẩm Đức
Việt. Ngoài ra, một số tập đoàn của Nhật Bản cũng đã đầu tư “khủng” để
sản xuất thực phẩm tại Việt Nam.
Lí giải vì sao
các nhà đầu tư ngoại lại liên tục đổ vốn vào ngành chế biến thực phẩm
Việt Nam trong thời gian qua, chuyên gia kinh tế TS.Bùi Quang Tín cho
rằng, nguyên nhân là lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do đã ký kết
với các nước, chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga và châu Âu. Để tận
dụng lợi thế của các hiệp định này, Việt Nam sẽ hỗ trợ doanh nghiệp (DN)
đẩy mạnh xuất khẩu 14 sản phẩm thực phẩm chế biến chủ lực trong thời
gian tới. Ngoài ra, nhiều nhà đầu tư nước ngoài trước đây đầu tư mạnh
vào Trung Quốc, nhưng trước nền kinh tế Trung Quốc đang bất ổn, các nhà
đầu tư nước ngoài đang có đối sách mới chuyển dịch đầu tư sang Việt Nam,
nơi được đánh giá là có nhiều tiềm năng và cơ hội.
“Với làn sóng chuyển dịch này, thực sự là cơ hội cho Việt Nam để thu
hút các lĩnh vực cần thu hút đầu tư mà Việt Nam còn đang yếu và thiếu.
Cụ thể, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang là mối quan tâm hiện nay
của người dân Việt, vì thế gần đây đã có làn sóng đầu tư về thực phẩm
sạch, như mới đây Canada đang có ý định xuất heo sạch vào Việt Nam.
Ngoài ra, Pháp, Hàn Quốc, Mỹ… cũng đang làm thủ tục thực hiện các dự án
đầu vào lĩnh vực công nghiệp chế biến thực phẩm Việt Nam”, TS Tín cho
biết thêm.
Khảo
sát của Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam cũng cho thấy, thực phẩm,
đồ uống là ngành hấp dẫn đầu tư cao với các doanh nghiệp (DN) ngoại. Dự
kiến năm nay, tổng số lượng giao dịch các thương vụ mua bán và sáp nhập
tại Việt Nam có thể đạt 600 giao dịch với tổng trị giá khoảng 6 tỉ USD.
Đi đầu các thương vụ trong năm 2016 là ngành bán lẻ và hàng tiêu dùng
chiếm 36,4% tổng trị giá. Trong đó, ngành sản xuất thực phẩm và bán lẻ
có những thương vụ tỉ đô với sự tham gia của DN ngoại. Theo đó, tiêu thụ
lương thực bình quân đầu người được dự đoán sẽ đạt tốc độ tăng trưởng
kép hàng năm là 17,6% trong giai đoạn 2015 - 2019. Ngành thực phẩm đóng
gói sẵn sẽ có tăng trưởng rất cao về sản lượng và doanh thu, ước tính
lần lượt đạt 24,2% và 48,7%.
Thay đổi để đón cơ hội
Mặc
dù vậy, theo đánh giá của ông Đặng Xuân Quang, Phó Cục trưởng Cục Đầu
tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), đầu tư nước ngoài (FDI) mới chỉ
tập trung vào các lĩnh vực rượu, bia, đồ uống… và ở những đô thị lớn như
Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Long An, Bình Dương, Đồng Nai. Trong khi đó,
các lĩnh vực công nghiệp thực phẩm quan trọng khác chưa thu hút được
nhiều, ít gắn kết với vùng nguyên liệu. Nhiều đối tác có thế mạnh trong
lĩnh vực công nghiệp chế biến thực phẩm trên thế giới nhưng ít tham gia
lĩnh vực này ở Việt Nam. Nguyên nhân là đến giờ này, đa số nông sản thực
phẩm được xuất đi dưới dạng tươi, thô hoặc sơ chế chứ chưa qua tinh
chế, chế biến sâu nên lợi nhuận thu về còn rất thấp. Chưa kể, nguồn
nguyên liệu nông, thủy sản Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà
sản xuất, xuất khẩu.
Ngoài
ra, theo ông Quang, hầu hết DN mua gom xuất khẩu chứ chưa chú trọng đầu
tư vùng nguyên liệu, kỹ thuật, công nghệ để chế biến sâu. Song song đó,
hiện chưa có chính sách ưu đãi riêng cho lĩnh vực này mà nằm rải rác ở
các quy định khác nhau, trong các chính sách nông nghiệp nông thôn, tín
dụng và phụ thuộc vào từng địa bàn cụ thể nên chưa thật sự “trải thảm
đỏ” cho nhà đầu tư. Đó là lí do vì sao, khối DN FDI mặc dù mỗi năm rót
vốn khá nhiều vào Việt Nam nhưng lại không mặn mà với lĩnh vực này. Số
liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, Việt Nam thu hút vốn FDI được
gần 290 tỉ USD và giải ngân gần 160 tỉ USD, thế nhưng thu hút FDI vào
lĩnh vực công nghiệp chế biến thực phẩm chỉ được 7,6 tỉ USD với 521 dự
án.
Theo
chuyên gia TS Bùi Quang Tín, để thu hút đầu tư vào lĩnh vực chế biến
thực phẩm, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ môi trường đầu tư thông
thoáng hơn để DN ngoại thấy được lợi ích đầu tư vào Việt Nam hơn gì với
các nước khác. Song song đó, chính quyền địa phương cần chủ động quy
hoạch vùng nguyên liệu nông sản cho nhà đầu tư gắn với các hình thức
chuyển giao quyền sử dụng đất từ nông dân sang nhà đầu tư trên cơ sở
thỏa thuận giữa nhà đầu tư và DN phù hợp với luật pháp Việt Nam. Đồng
thời, các DN sản xuất trong nước cần áp dụng công nghệ tiên tiến trong
sản xuất nông, thủy sản để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thực
tế cho thấy, Công ty Starbucks (Mỹ) bán cà phê Arabica có xuất xứ từ
Cầu Đất, Đà Lạt tại hơn 21.500 cửa hàng Starbucks ở 56 quốc gia. Điều đó
chứng tỏ, nguồn nguyên liệu thực phẩm của Việt Nam hiện có thể đáp ứng
được yêu cầu chất lượng của các hãng thực phẩm và đồ uống uy tín nhất
trên thế giới. Do đó, nhiều ý kiến khác cũng cho rằng các DN, tổ chức,
địa phương của Việt Nam có nhu cầu thu hút FDI vào lĩnh vực này cũng cần
chủ động xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài đến hợp tác đầu tư kinh
doanh.
Giáo sư Võ Tòng Xuân, chuyên gia nông học: Doanh nghiệp Việt cần chủ động hơn
Có
thể thấy nhiều hạn chế của ngành nông nghiệp Việt Nam khiến các nhà đầu
tư ngoại ngại bỏ vốn vào. Thứ nhất, nguồn nguyên liệu nông, thủy sản có
chất lượng không ổn định, không được kiểm soát chặt về an toàn vệ sinh
thực phẩm, rất rủi ro cho nhà đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu nên DN
không dám đầu tư lớn. Thứ hai, công nghệ sau thu hoạch của Việt Nam còn
quá kém, chưa hỗ trợ được các khâu sản xuất tinh. Vì vậy, thay vì bỏ vốn
vào lĩnh vực này, nhà đầu tư có nhiều lựa chọn khác để bỏ vốn hiệu quả
hơn. Trước thực trạng đó, tôi cho rằng cần có những DN trong nước đi
trước, đầu tư hiệu quả để tạo động lực cho các DN khác làm theo.
Ông Roh Woong Ho, Giám đốc kinh doanh khu vực Đông Nam Á của CJ: Thị trường thực phẩm Việt Nam rất lớn
Với
thu nhập bình quân của người Việt Nam đang gia tăng, mặt khác an toàn
thực phẩm cho bữa ăn hằng ngày được người Việt rất quan tâm, đây là cơ
hội tốt cho việc kinh doanh. Có thể thấy, tốc độ tăng trưởng ngành thực
phẩm chế biến lên tới 10 - 15% năm. Vì thế, hiện rất nhiều DN ngoại muốn
thâm nhập thị trường thực phẩm Việt Nam để đầu tư, đó cũng là lý do vì
sao chúng tôi đã rót vốn 500 triệu USD vào Công ty chế biến hàng xuất
nhập khẩu Cầu Tre. Khoản đầu tư này không chỉ cho hiện tại mà còn đón
đầu cả tương lai.
Ông Văn Đức Mười, Tổng Giám đốc Công ty Vissan: Chủ động đổi mới công nghệ để cạnh tranh
Việc
các nhà đầu tư nước ngoài gia tăng mua bán, sáp nhập DN về lĩnh vực
công nghiệp thực phẩm là điều tất yếu bởi đây không chỉ là cơ hội cho DN
ngoại khi Việt Nam hội nhập mà cũng là cơ hội cho DN nội nâng cao công
tác quản trị kinh doanh, tài chính và nhân lực. Theo đó, sự hợp tác này
cũng chỉ là để bổ sung cho những khiếm khuyết của DN nội đang yếu, từ đó
có thể tăng thêm sức mạnh để cạnh tranh. Tuy nhiên, điều này cũng đòi
hỏi nhiều áp lực cho DN Việt nếu không chủ động củng cố vị thế của mình.
Ngay cả Vissan dù đang được người tiêu dùng tín nhiệm nhưng vẫn luôn
tìm cách đổi mới và đầu tư công nghệ để có được vị trí hiện nay.
|
Hải Yên/Báo Tin tức