Trong chiến tranh, Minh mang quân hàm “đề
đốc - chuẩn tướng hải quân Việt Nam Cộng hòa”. Theo R. Armitage (R.
Ác-mi-ta-giơ) - người đã sống ở Việt Nam khá lâu, sau là quan chức cấp
cao của Bộ Quốc phòng Chính quyền Tổng thống R.Reagan (Ri-gân), giám
sát chính khu vực Đông - Nam Á; thời Chính quyền Tổng thống G.H.W Bush
(G.Bu-sơ), ông là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) thì Minh là “chiến binh có
tiếng”. Nhưng năm 1975 khi sang Mỹ, Minh rơi vào tình cảnh thiếu thốn,
chỉ có 200 USD trong tài khoản ở một ngân hàng Hàn Quốc và chút ít
vàng. Dù có bạn bè ở Mỹ nhưng ông ta bắt đầu cuộc sống mới bằng nghề
khuân vác thuê, thợ sơn nhà. Trên giấy tờ, ông ta khai mình là người
“không quốc tịch”.
Thời gian đó, Minh tiếp xúc với người Việt
trong cộng đồng Tiểu Sài Gòn và nhận thấy nhiều người trong số họ vẫn
khao khát phản kháng và trả thù. Bỏ nghề sơn nhà, năm 1981 Minh tới
Fresno (Phre-xnơ) để thực hiện kế hoạch cùng với nhóm “cựu sĩ quan Việt
Nam Cộng hòa” và số người còn nuôi hy vọng về một cuộc chiến tranh nữa ở
Việt Nam. “Mặt trận” thành lập, Minh là người lãnh đạo với quyết tâm
lật đổ chính quyền Việt Nam. Để phát triển quân đội, Minh không chỉ
tuyển người tại Mỹ mà sử dụng các quan hệ cũ để xây dựng mạng lưới lính
tình nguyện từ người tị nạn. Ông ta thiết lập căn cứ cho “mặt trận” ở
vùng rừng núi đông bắc Thái-lan. Tại đây, lính mới được rèn luyện, chờ
thời cơ đến sẽ tiến hành chiến tranh du kích ở Việt Nam.
Về sơ đồ
tổ chức của “mặt trận”, theo một thành viên sáng lập là Đỗ Thông Minh
thì Hoàng Cơ Minh là lãnh đạo tối cao. Ông ta cùng cấp phó là Lê Hồng
cùng sống trong căn cứ trên đất Thái-lan. Tại Mỹ, ủy ban điều hành
khoảng 10 người do một cựu đại tá quản lý việc gây quỹ, tuyên truyền,
thành lập chi hội ở châu Âu, Canada (Ca-na-đa), Australia
(Ô-xtrây-li-a), châu Á. “Mặt trận” tìm mọi cách để kiếm tiền, không
loại trừ sử dụng thủ đoạn để ép buộc người Việt ở Mỹ phải góp tiền.
Theo một biên bản được FBI ghi lại thì các đặc vụ ở San Francisco nhận
được thông tin rằng, “mặt trận” sử dụng “tống tiền và biện pháp phi pháp
khác để góp nhặt và xin tiền”. Cũng theo FBI, thì số tiền “mặt trận”
kiếm được ước tính lên đến vài triệu USD…
Vụ ám sát điển hình
nhằm vào nhà văn Lê Triết khi ông này cùng vợ về nhà sau một bữa tiệc
tối 22-9-1990. Triết và vợ đã chết khi một loạt đạn cỡ 9 ly bắn qua cửa
sổ xe hơi. Các nhà điều tra nhận định đây là vụ tiến công chuyên
nghiệp. Lê Triết làm việc cho tờ nguyệt san Văn nghệ tiền phong, phụ
trách một chuyên mục về văn chương và có thái độ khinh thị đối với “mặt
trận”. Là người chống cộng nhưng ông hoài nghi “mặt trận” và các lãnh
đạo của tổ chức này, thường xuyên chỉ trích “mặt trận” tìm mọi cách gây
quỹ. Theo tài liệu của FBI, trước khi bị sát hại, nhà văn này đã bị
“mặt trận” xúc phạm và đe dọa, ông phải mang theo súng khi đi làm, liên
tục thay đổi tuyến đường đi. Ông cũng từng gặp các chỉ huy của "mặt
trận" tại một ngôi nhà ở Frederick (Phre-đơ-rích) và thẳng thừng từ chối
lời đề nghị thôi chỉ trích tổ chức này.
Để tuyên truyền cho hoạt
động của tổ chức và thuyết phục cộng đồng người Việt tại Mỹ tài trợ
cho cuộc chiến tranh do “mặt trận” phát động, báo chí là phương tiện
được khai thác triệt để. Bởi thế, khi xuất hiện các nhà báo như Lê Triết
lên tiếng hoài nghi thì “mặt trận” liền dùng bạo lực đe dọa. Những
thông tin về việc bị tiến công, giết hại được gửi đến các phương tiện
truyền thông tiếng Việt, trong đó có nêu đích danh năm nhà báo thường
đả kích “mặt trận”. Hai người trong đó đã bị giết. Theo Nguyễn Tú A,
chủ bút Viet Press - một tờ báo ở quận Cam, thì các thành viên của “mặt
trận” quấy rối các nhân viên tờ báo, gây sức ép với các doanh nghiệp
để buộc họ phải gỡ bỏ quảng cáo cho đến khi tòa soạn đóng cửa. Ông nhớ
lại: “Tôi tin rằng mình đã thiệt hại khoảng 84.000 đô-la”.
Những
vụ tiến công, sát hại diễn ra ở nhiều nơi. Đó là cái chết của Phạm Văn
Tập - điều hành tạp chí giải trí Mai. Sau vụ án mạng, một tuyên bố được
gửi đến giới báo chí nói rằng Tập bị giết vì ông là kẻ tham lam, ủng hộ
những người cộng sản bằng việc đăng quảng cáo. Đó là Dương Trọng Lâm
bị giết vì có thiện cảm với chính quyền Hà Nội. Nguyễn Đạm Phong thì
công bố nghiên cứu về sự thật của “mặt trận”. Ông coi Hoàng Cơ Minh là
kẻ gian lận, lừa bịp, gọi Minh và những kẻ tin theo là “lũ hề”. Ông chỉ
ra lỗ hổng trong đoạn phim về đội quân của Minh đã được phát sóng toàn
nước Mỹ và đăng bài viết trên tờ Tự do với nhan đề Sự thực về đề đốc
Minh trở về Việt Nam. Theo Tú Nguyễn, con trai của Nguyễn Đạm Phong, thì
“mặt trận” đã cố bịt miệng cha của anh bằng tiền hay lời đe dọa nhưng
đều không thành công. Tại buổi gặp gỡ giữa Nguyễn Đạm Phong với lãnh
đạo “mặt trận”, một tối hậu thư đã được đưa ra: hoặc dừng lại, hoặc là
chết. Vài ngày sau đó Nguyễn Đạm Phong bị bắn chết.
FBI nghi ngờ
“mặt trận” đã sử dụng tên giả là VOECRN (viết tắt Vietnamese
Organization to Exterminate Communists and Restore the Nation - tạm dịch
là: “Tổ chức của người Việt Nam diệt trừ cộng sản và phục hồi quốc
gia”). Họ cố tình che giấu vai trò trong các vụ tiến công nhà báo nhưng
không kết quả. K.Tang-Wilcox (K.Tang-uyn-coóc), cựu đặc vụ chỉ huy
cuộc điều tra của FBI, cho biết: “Những gì cho thấy mối quan hệ giữa
chúng là các thông điệp”, “có những lời đe dọa giết người, các vụ tiến
công, vụ giết người”. Tang-Wilcox đề cập thông tin từ nhiều cựu thành
viên của “mặt trận”, nói tổ chức này đã lập ra một đội sát thủ có mật
danh là K-9. Ở FBI có nhiều báo cáo chi tiết về mối liên hệ giữa K-9 với
các vụ giết người cụ thể. Bà tin “mặt trận” đã ra tay với vợ chồng Lê
Triết, Nguyễn Đạm Phong. Một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng hòa vốn là thành
viên của “mặt trận” nói ông biết những người chịu trách nhiệm về cái
chết của Nguyễn Đạm Phong, và chưa từng có người thực thi pháp luật nào
ở Mỹ thẩm vấn ông.
ProPublica và Frontline đã tìm thấy năm thành
viên của “mặt trận”, trong đó có Trần Văn Bé Tư. Những người này thừa
nhận nhóm sát thủ K-9 đã ra tay sát hại các nhà báo và người phản đối
“mặt trận”. Bé Tư là người chống cộng cực đoan. Ông ta cho biết được
tuyển chọn tham gia K-9 nhưng không đồng ý, dù rất ngưỡng mộ. “K-9 làm
tốt lắm, họ là dân chuyên nghiệp mà”, ông ta nói. “Họ chưa bao giờ bị
tóm gáy”. Ông ta cũng nghĩ K-9 đã giết Nguyễn Đạm Phong, có khả năng là
chịu trách nhiệm về cái chết của Phạm Văn Tập, Lê Triết cùng vợ. Nhiều
năm sau, cựu thành viên “mặt trận” và những người tự coi mình là nạn
nhân của tổ chức này vẫn sống tại California và Virginia, Houston và
New Orleans (Niu Oóc-lin). Họ chọn sự im lặng, thường là sợ hãi vì
không muốn dính vào rắc rối. Đoàn Văn Toại, một người thường chỉ trích
“mặt trận” trên mặt báo đã ngừng viết, lui vào ở ẩn sau khi bị bắn gần
nhà vào năm 1989. Tam Nguyen là ký giả ở San Jose (Xan Giô-xê) từng bị
hành hung đã nói, thời của khủng bố là “ký ức đau đớn tôi đã cố gắng
chôn sâu”. Nguyễn Xuân Nghĩa từng là người phát ngôn của “mặt trận”, sau
nhiều trò chuyện cuối cùng cũng thừa nhận đã có một phe phái chủ
trương bạo lực trong tổ chức, ông ta đã từng tham gia một cuộc họp bàn
việc ám sát một biên tập viên báo chí nổi tiếng ở quận Cam. Còn gia
đình các nạn nhân, như Tú Nguyễn - con trai của Nguyễn Đạm Phong, cho
biết “Chúng tôi chỉ muốn có câu trả lời”, ông nói: “Chỉ thế thôi”.
Dương
Trọng Lâm bị giết ngày 21-7-1981. Chỉ 24 giờ sau đó, cảnh sát điều tra
của San Francisco đã viết ra một danh sách ngắn những nguyên nhân có
thể giải thích vì sao ông bị bắn chết bên ngoài căn hộ của mình, trong
đó có vài nguyên nhân thường gặp như vì tình, vì tiền… Nhưng hồ sơ của
cảnh sát cũng cho thấy các thám tử có lý do để xem xét từ nguyên nhân
chính trị. Lâm và tờ báo của ông được xem là có cảm tình với cộng sản
Việt Nam. Và Lâm từng nhận được lời đe dọa từ những người trong cộng
đồng người Mỹ gốc Việt vốn coi Lâm là kẻ phản bội. Vài ngày sau khi Lâm
chết, một thư nặc danh đã được gửi đến tòa soạn nói rằng Lâm bị trừng
trị vì ủng hộ cộng sản. Bạn bè của Lâm viết đơn gửi cảnh sát địa phương
và FBI, trích dẫn thư này và đặt ra giả thuyết rằng giết Lâm là một
phần của việc mở rộng hành vi bạo lực với động cơ chính trị. Các công
tố viên liên bang đã chất vấn FBI việc giết Lâm có phải là “một hành
động có thể là khủng bố”. Nhưng FBI kết luận không phải vì lý do chính
trị. Nhiều năm điều tra một chuỗi tội ác tương tự, cuối cùng các điều
tra viên cũng nhận ra sai lầm: Lâm chỉ là một trong nhiều nhà báo người
Mỹ gốc Việt bị sát hại bởi “mặt trận” - tổ chức nuôi giấc mơ một ngày
nào đó chiếm lại Việt Nam, và sẵn sàng thủ tiêu bất cứ ai thách thức
nó.
Năm 1995, hơn 20 vụ án được hợp vào “vụ án lớn”, một đội điều
tra truy tìm manh mối được thành lập, nhưng việc khởi tố hình sự không
diễn ra. ProPublica và Frontline xem xét các cuộc điều tra của địa
phương và liên bang với “mặt trận”, và thấy nhiều manh mối bị bỏ qua,
do đó không thể tìm ra đủ bằng chứng để tiếp tục. Chúng tôi tiến hành
phỏng vấn năm người trực tiếp tham gia cuộc điều tra của FBI cũng như
của cảnh sát địa phương; tìm được các hồ sơ vụ án đã 30 năm tuổi, báo
cáo điều tra từ bảy vùng lãnh thổ; nói chuyện với ít nhất 10 người được
xác định trong các hồ sơ như là nghi phạm của vụ án. Người chỉ huy nhóm
điều tra của FBI trong nhiều năm, bà Tang-Wilcox nói rằng cuộc điều
tra là một ung nhọt, dẫn đến việc nghỉ hưu của bà, nhưng bà không nghĩ
nó cần phải dừng lại. Từ cách thức các điều tra viên tiến hành với vụ
án Dương Trọng Lâm, ProPublica và Frontline nhận ra nhiều năm trước
những người thực thi pháp luật đã có thiếu sót nghiêm trọng. Hendrix
(Hen-đrít) và Sanders (Xan-đơ) là thám tử của Sở cảnh sát San Francisco
không nghĩ nhiều tới động cơ chính trị phía sau việc ám sát Lâm và họ
nghĩ đây là kết quả tranh chấp tiền bạc. Nancy Dương (Nan-ci Dương) -
em gái của Lâm, cho biết cô nói với các nhà điều tra có thể quan điểm
chính trị của Lâm là nguyên nhân dẫn tới cái chết của anh. Bản thân cô
cũng đã bị đe dọa, khi một người đàn ông chĩa súng vào đầu cô, rồi nói:
“Mày là đồ Việt cộng! Hãy cút khỏi đất nước này”. Cô chia sẻ với họ về
lời đe dọa, về cuộc điện thoại gọi đến nhà cô để nhận trách nhiệm về
cái chết. Song bản ghi cuộc thẩm vấn mà Hendrix và Sanders tiến hành
cho thấy bất đồng ngôn ngữ là rào cản của sự tiếp xúc. Theo Trang Q.
Nguyễn, nhà tư vấn các đơn vị truyền thông tiếng Việt ở Nam California,
thì “có một rào cản văn hóa, và mọi người sợ nói”.
(Còn nữa)
Thanh Liêu (Lược dịch)