ĐẶT VẤN ĐỀ
Kinh tế tư nhân (KTTN) là hình thức tổ chức
kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm các loại
hình kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Đây là một
thành tố quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Tại Đại hội VI (năm 1986),
Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện,
tập trung vào đổi mới kinh tế và mở đường cho KTTN tham gia trực tiếp
vào các hoạt động kinh tế. Các chủ trương và chính sách mới được ban
hành nhằm khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong
đó có KTTN. Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh KTTN là một phần quan trọng
của nền kinh tế quốc dân và việc phát triển KTTN là một khâu đột phá
nhằm xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Sự tham
gia của KTTN là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy, hỗ trợ các thành
phần kinh tế khác phát triển nhằm thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong
phát triển kinh tế, CNH, HĐH và tăng cường năng lực nội tại của đất
nước trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu.
Xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và cho phép KTTN tồn tại và
phát triển là một bước tiến trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới. Nhờ những chủ trương, chính sách đổi mới
tích cực và hiệu quả của Đảng và Nhà nước, khu vực KTTN đã có những đóng
góp rất quan trọng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế một cách cân bằng và
hài hòa với các giá trị xã hội. KTTN giúp giải phóng lực lượng sản
xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội và thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Ngoài
ra, khu vực KTTN có tính năng động, tranh thủ được mọi nguồn lực trong
xã hội nhằm cải thiện đời sống của nhân dân, tăng thu ngân sách nhà nước
và thực hiện các chủ trương xã hội hóa trong y tế, văn hóa, giáo dục.
Tất cả những đóng góp này không chỉ góp phần vào sự ổn định chính trị và
xã hội của đất nước, mà còn từng bước hiện thực hóa mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
Sau
Đại hội VI (năm 1986), nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân
đã có sự thay đổi cơ bản, KTTN ở Việt Nam không còn bị “cấm cản” mà dần
được tự do sản xuất, kinh doanh. Đại hội VI nhấn mạnh: “Phải có chính
sách mở đường cho người lao động tự tạo ra việc làm, kích thích mọi
người đưa vốn vào sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm tiêu dùng để tích lũy
tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội”(1). Nghị quyết số
16-NQ/TW ngày 15/7/1988 của Bộ Chính trị khóa VI và Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI tiếp tục khẳng định phát triển KTTN nhằm mang lại
lợi ích cho nền kinh tế quốc gia và nâng cao đời sống người dân.
Tuy
nhiên, KTTN mà nòng cốt là kinh tế tư bản tư nhân (doanh nghiệp tư
nhân) chỉ thực sự được thừa nhận và tham gia vào nền kinh tế Việt Nam
sau khi Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân chính thức được Quốc
hội Việt Nam thông qua vào tháng 12/1990 (có hiệu lực từ ngày
15/4/1991). Điều 3, Luật doanh nghiệp tư nhân nhấn mạnh: “Nhà nước công
nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa
nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân với các doanh
nghiệp khác và tính sinh lợi hợp pháp của kinh doanh. Trong khuôn khổ
pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ
động trong mọi hoạt động kinh doanh”(2). Đây là văn bản pháp
lý quan trọng đầu tiên chính thức thừa nhận sự tồn tại khách quan của bộ
phận cơ bản nhất thuộc khu vực KTTN trong nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Điều này đã tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp
thuộc khu vực KTTN quy mô lớn được thành lập và đi vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh.
Đại hội VII (tháng 6/1991) tiếp tục nhận thức sự
cần thiết phải phát triển kinh tế nhiều thành phần để giải phóng và
phát huy mọi tiềm năng sản xuất, đồng thời đánh giá khách quan, đúng đắn
về thành phần KTTN. Đại hội VII khẳng định: “Kinh tế tư nhân được phát
triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của
Nhà nước”(3). Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội đến năm 2000 của Đại hội VII nhấn mạnh: “Kinh tế tư bản tư nhân được
phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những
ngành, nghề mà pháp luật không cấm”(4). Như vậy, đến Đại hội
VII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức khá rõ về vị trí, vai trò của
KTTN và khích lệ, tạo điều kiện tốt nhất cho KTTN phát triển.
Cơ
sở pháp lý quan trọng và có hiệu lực cao nhất bảo đảm cho sự phát triển
lâu dài và bình đẳng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong
giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế là Hiến pháp năm
1992. Hiến pháp đã ghi nhận sự tồn tại của thành phần “kinh tế cá thể,
tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân” và thừa nhận nhiều hình thức sở hữu,
bảo hộ vốn và tài sản hợp pháp của người kinh doanh. Hiến pháp năm 1992
đã đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển ổn định, lâu dài của KTTN ở
Việt Nam.
Đại hội VIII tiếp tục khẳng định tất cả các thành phần kinh
tế được đối xử một cách bình đẳng, công bằng. Trong đó, tạo điều kiện
về vốn, hành lang pháp lý, thủ tục hành chính… để các nhà kinh doanh tư
nhân yên tâm đầu tư sản xuất, đặc biệt nhấn mạnh: kinh tế cá thể, tiểu
chủ có vị trí quan trọng, lâu dài.
Trên cơ sở đường lối và quan
điểm của Đảng đối với KTTN, Nhà nước Việt Nam đã có những đổi mới về cơ
chế, chính sách để phát triển KTTN, đặc biệt là việc ban hành Luật Doanh
nghiệp năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2000) thay cho Luật
Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1991. Trên cơ sở đó, Nghị định
02/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 3/2/2000 về việc hướng dẫn thi hành
Luật Doanh nghiệp đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho các
thành phần kinh tế phát triển, trong đó có thành phần kinh tế tư bản tư
nhân. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2000 đã đánh dấu bước ngoặt
mới nhằm thúc đẩy KTTN phát triển ở tầm cao. Đại hội IX (năm 2001) tiếp
tục nhấn mạnh vị trí, vai trò quan trọng của thành phần KTTN: “Kinh tế
tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô
trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm”(5).
Tiếp
tục khẳng định những đóng góp quan trọng của KTTN, nhằm cụ thể hóa Nghị
quyết Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX đã ban hành Nghị quyết
số 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 về "Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách,
khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Hội nghị đánh
giá cao vai trò của KTTN, coi KTTN là bộ phận không thể thiếu của nền
kinh tế quốc dân. Thông qua việc phát huy tính năng động, sự sáng tạo,
khả năng thích ứng của khu vực KTTN tạo thêm động lực đưa nền kinh tế
Việt Nam vươn lên tầm cao mới, với nhiều cơ hội phát triển, qua đó tăng
tốc độ tăng trưởng GDP, mở ra nhiều cơ hội việc làm, xóa đói giảm nghèo
và phát triển nguồn nhân lực…
Từ thực tế đúc kết kinh nghiệm trong
việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương
5 khóa IX, Đại hội X (năm 2006) khẳng định: “Kinh tế tư nhân có vai trò
quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(6).
Đảng chủ trương “xóa bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát
triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không
cấm”(7).
Tại Đại hội VI (năm 1986), lần đầu tiên Đảng
Cộng sản Việt Nam có quan niệm mới về vai trò, vị thế của KTTN, thì sau
20 năm, tại Đại hội X (năm 2006), Đảng đã có nhận thức mới về KTTN khi
thừa nhận KTTN là “một trong những động lực của nền kinh tế”. Quan điểm
này là một bước phát triển cao về chất, ghi nhận sự tiến bộ trong tư duy
lý luận của Đảng về KTTN. Nói cách khác, đến Đại hội X, nhận thức về
phát triển KTTN của Đảng ta đã được bổ sung, hoàn thiện, toàn diện hơn
và có cách nhìn đa chiều cả về khung pháp lý, cơ sở lý luận và thực
tiễn. Mặt khác, Đảng cũng chủ trương thành lập các tập đoàn kinh tế lớn,
có sự tham gia của KTTN trong và ngoài nước. Đây là một sự chuyển biến
mạnh mẽ trong tư duy của Đảng, hoàn toàn phù hợp với thực tế khách quan
nhằm tăng cường hiệu suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Điểm
đột phá ấn tượng nhất là Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban
hành Quy định số 15-QĐ/TW ngày 28/8/2006 về "Đảng viên làm kinh tế tư
nhân”. Việc Đảng cho phép đảng viên làm KTTN là một quyết sách đúng đắn,
mở rộng ranh giới, phá vỡ những giới hạn truyền thống trong tư duy của
Đảng. Tuy nhiên, đảng viên phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính
sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của
Ban Chấp hành Trung ương.
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) diễn ra
trong một thời điểm có ý nghĩa trọng đại. Công cuộc đổi mới đất nước đã
trải qua 25 năm, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã thực hiện
được 20 năm. Để phát triển đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh, Đại
hội XI đã làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn trong phát triển
thành phần KTTN: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là
một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”(8).
Nghị quyết Đại hội XI tiếp tục nhấn mạnh vai trò của KTTN: “Hoàn thiện
cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một
trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh
tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy
định của pháp luật”(9). Để KTTN thực sự phát triển và hoạt
động hiệu quả, Đại hội XI đã ưu tiên phát triển các loại hình KTTN ở hầu
hết các lĩnh vực, các ngành, đặc biệt nhấn mạnh “hỗ trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại, hộ sản xuất kinh doanh”(10).
Vị
trí, vai trò của KTTN đối với nền kinh tế quốc dân một lần nữa được
nâng lên tầm cao mới trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng (năm 2016). Đây
là kết quả của quá trình nhận thức và đổi mới tư duy của Đảng. Điểm mới
của Đại hội XII so với các nhiệm kỳ đại hội trước là: Đảng khẳng định
KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Đại hội nhấn
mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát
triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở
thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp”(11).
Cũng từ đây, khái niệm tập đoàn KTTN xuất hiện. Thông qua việc không
phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam thể
hiện một tư duy tiến bộ với những nhận thức mới. Điều này tạo ra cơ hội
và môi trường lý tưởng cho KTTN tiếp tục phát triển trên quy mô xứng
tầm, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội toàn diện của
đất nước.
Để phát triển KTTN trong tình hình mới, Hội nghị Trung
ương 5 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 về "Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết khẳng định,
KTTN ở Việt Nam đã không ngừng phát triển, có nhiều ảnh hưởng tích cực,
đóng góp vào công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta
ngày càng có cái nhìn sâu sắc, tích cực và toàn diện hơn về vị trí và
vai trò của KTTN. Hệ thống pháp luật, cơ chế, và chính sách từng bước
được cải thiện và hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi nhất để KTTN có
điều kiện phát triển. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của KTTN có xu hướng
giảm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có sức cạnh tranh thấp, cơ cấu ngành
nghề bất hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu, tiềm ẩn nhiều rủi ro và
thiếu tính minh bạch. Từ đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII nêu rõ: Kinh
tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật
không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; nâng cao
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thực hiện theo tinh
thần Nghị quyết, KTTN đã có sự phát triển nhanh chóng và có nhiều đóng
góp cho nền kinh tế, tạo việc làm và cải thiện an sinh xã hội.
Đến
Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta đã nhận thức rõ ràng và đầy đủ về vị
trí và vai trò của KTTN với nhiều nội dung mới có tính khái quát cao.
Đại hội đã thống nhất và nâng cao nhận thức về sự phát triển mạnh mẽ của
KTTN ở Việt Nam: Phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân của người
Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả “thực sự trở thành một
động lực quan trọng trong phát triển kinh tế”(12). Đồng thời,
Đại hội cũng tập trung vào việc hoàn thiện thể chế, thúc đẩy sự phát
triển của KTTN, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tiến hành đổi mới, cải
thiện công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường và cải
thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Đặc biệt, Đại hội nhấn mạnh
vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong việc tham gia các hoạt động xã
hội, bảo vệ môi trường và thực hiện trách nhiệm xã hội. Tất cả những nội
dung trên phản ánh sự kết hợp trí tuệ và sức sáng tạo của toàn Đảng,
toàn dân, cũng như sự phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam về KTTN.
KẾT LUẬN
Xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN trong thời kỳ đổi mới cùng với việc thừa nhận
KTTN “là một động lực quan trọng của nền kinh tế” chính là sự đột phá
trong tư duy lý luận và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Qua các kỳ Đại hội, từ Đại hội VI đến Đại hội XIII,
quá trình nhận thức về vai trò và vị trí của KTTN đối với sự phát triển
của đất nước đã được minh chứng rõ ràng và ngày càng được hoàn thiện.
Trải
qua gần 40 năm đổi mới, sự phát triển trong tư duy lý luận của Đảng đã
tạo nền tảng cho việc xây dựng và hoàn thiện các thể chế, cơ chế và
chính sách để phát triển KTTN ở Việt Nam; thể hiện tầm nhìn chiến lược,
nhận thức ngày càng rõ hơn vai trò của KTTN đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội đất nước.
Những chủ trương và chính sách kịp thời, đúng đắn
đã tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của KTTN và khẳng định mạnh mẽ vị
trí và vai trò trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Các thành
tựu Việt Nam đạt được là minh chứng rõ ràng nhất cho sự đúng đắn và phù
hợp khi lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, là cơ sở để
tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện thể chế kinh tế, từ đó đưa Việt Nam
tiếp tục hội nhập và phát triển./.
TS. TRƯƠNG THỊ HỒNG NGA
Trường Đại học xây dựng Miền Tây
TS. NGUYỄN THỊ TÚY
Trường Đại học Tài chính - Marketing, Thành phố Hồ Chí Minh
_________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1986, tr.55-56.
(2) Điều 3, Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần II, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2010, tr.574.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2013, tr.249.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2003, tr.191.
(6) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr.83, 86-87.
(8) (9) (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.35, 209, 209.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.107-108.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.240.
(Nguồn: lyluanchinhtri.vn)