1. “Con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội”
Con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới, luôn được các nhà khoa học nghiên cứu sâu sắc với nhiều chiều cạnh. Trước Mác, những nhà triết học cho rằng: con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội, v.v.. nhưng đến Các Mác, ông đã nghiên cứu con người với tư cách là một thực thể tự nhiên - xã hội, tồn tại và phát triển trong sự gắn bó hữu cơ với giới tự nhiên và xã hội loài người; chịu sự tác động, nhưng không phải là sản phẩm thụ động của tự nhiên và các quan hệ xã hội mà là chủ thể giữ vai trò quyết định đối với sự vận động, phát triển của thế giới và của chính mình.
Theo Các Mác, lao động quyết định của sự hình thành con người, đánh dấu sự chuyển biến từ động vật thành con người. Trong lao động, con người xây dựng nên thế giới văn hoá vật chất và tinh thần của mình và cũng từ trong lao động, con người đã hình thành - chất xã hội của con người, như ngôn ngữ, tư duy, giao tiếp, quan niệm, định hướng giá trị, thế giới quan… Bản chất con người không phải là “cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt” như người ta nghĩ, mà có tính lịch sử - cụ thể. Đó là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội và “cơ sở hiện thực” của con người là “tổng số những lực lượng sản xuất, những tư bản và những hình thức xã hội của sự giao tiếp mà mỗi cá nhân và mỗi thế hệ thấy hiện có”[1]. Tính hiện thực của con người - “những cá nhân con người sống thể hiện ở sự tồn tại khách quan trong hoạt động thực tiễn của nó: “Con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội”[2] - và vì vậy, “bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội”[3]. Quan điểm của Các Mác là một bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người, về bản chất con người và vị trí, vai trò của con người trong tiến trình phát triển của nhân loại. Đồng thời quan điểm của Các Mác cũng cho thấy, mọi hoạt động lao động sản xuất con người đều không ngoài mục đích sáng tạo ra toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần. Cũng với ý nghĩa đó, bằng các hoạt động cách mạng, con người đánh dấu các trang sử mới cho chính mình phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình trong tiến trình phát triển.
Trong các tác phẩm của mình: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen” (1843), “Bản thảo kinh tế - triết học” (1844), “Luận cương về Phoiơbắc” (1845)… Các Mác đã chỉ rõ con người là thể thống nhất hoàn chỉnh, là thực thể sinh học - xã hội, hình thành nên từ hai mặt: tự nhiên và xã hội; tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau trong bản chất con người; đồng thời khẳng định mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội. Xã hội có vai trò quan trọng đối với sự hình thành cá nhân và cá nhân cũng có vai trò không kém phần quan trọng đối với sự hình thành xã hội: “Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”[4]. Trình độ giải phóng xã hội luôn được thể hiện ra ở sự tự do của cá nhân con người, vì cá nhân được giải phóng sẽ tạo ra động lực cho giải phóng xã hội và đến lượt mình, giải phóng xã hội lại trở thành điều kiện thiết yếu cho sự giải phóng cá nhân. Con người tự giải phóng cho mình và qua đó, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội - đó chính là sự khẳng định vị thế và vai trò của con người trong tiến trình lịch sử.
Theo Các Mác, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn của con người và xã hội; là sự vận động chuyển giao lực lượng sản xuất giữa các thế hệ con người và nhờ sự chuyển giao ấy mà con người “hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người, hình thành lịch sử loài người” và “Lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người”[5]. Bởi, thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã để lại những dấu ấn sáng tạo của bản thân mình vào giới tự nhiên, vào xã hội và qua đó, phát triển, hoàn thiện bản thân mình. Với khả năng và năng lực của mình, con người chính là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, tạo nên những nền văn minh trong lịch sử nhân loại.
Từ việc giải đáp một cách duy vật về con người, bản chất con người, tính hiện thưc, con người với tư cách thực thể sinh học - xã hội, với tư cách nhân cách, vị trí và vai trò của con người trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại, tư tưởng của Các Mác hướng đến mục đích giải phóng con người, giải phóng xã hội. Cũng trong các nghiên cứu của mình, Các Mác khẳng định rằng: Xã hội tư bản là một bước tiến trong lịch sử phát triển của nhân loại; là cơ sở cho sự phát triển của bản chất con người, là điều kiện cho sự giải phóng xã hội, giải phóng nhân loại. Song sở hữu tư nhân, nhất là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã trở thành nguyên nhân và suy đến cùng, đó là nguyên nhân chủ yếu và cơ bản nhất gây ra những tai hoạ khủng khiếp cho con người, làm tha hoá con người. Theo ông, “con người đã hiểu khái niệm chế độ tư hữu, nhưng nó chưa làm rõ được cho mình bản chất của chế độ đó, vì thế, chừng nào mà con người còn chưa nhận thức được “bản chất tích cực của chế độ tư hữu và chưa hiểu được tính chất con người của nhu cầu” thì chừng đó, họ “còn bị chế độ tư hữu cầm tù và truyền nhiễm”[6]. Do vậy, việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu là để cứu lấy con người, giải phóng con người[7] và “muốn xoá bỏ tư tưởng về chế độ tư hữu, thì tư tưởng về chủ nghĩa cộng sản là hoàn toàn đủ rồi. Còn muốn xoá bỏ chế độ tư hữu trong hiện thực thực tế thì phải có hành động cộng sản chủ nghĩa hiện thực”[8] và lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử thực hiện thành công sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại ấy chính là giai cấp vô sản[9].
Hơn nữa, mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, giải phóng xã hội, vì thế mà, có thể nói, chủ nghĩa xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người, mà trong hiện thực, con người đã từng bước được giải phóng: con người đã từ “vương quốc của tất yếu” chuyển sang “vương quốc tự do”, “trong đó sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[10]. Sự tự do đem lại cho con người quyền được lao động, được phân phối công bằng của cải vật chất và tinh thần, được tham gia vào các công việc xã hội, được phát triển và vận dụng các năng lực của mình thực hiện những nhu cầu cơ bản. Trong chủ nghĩa xã hội, tự do cá nhân không chỉ biểu hiện trong các quyền cá nhân được hưởng, mà còn được biểu hiện trong nghĩa vụ và trách nhiệm - thể hiện sự phát triển xã hội và con người.
Quan điểm của Các Mác về con người, về giải phóng con người có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn, trở thành cơ sở lý luận cho nhiều ngành khoa học, cho Đảng ta trong việc giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội và con người: “Chủ nghĩa Mác có một ý nghĩa triết học; nó là một triết học: một “chủ nghĩa nhân bản”… chủ yếu nó là triết học về sự giải phóng và của tự do”[11]. Quan niệm của Mác về phát triển xã hội lấy sự phát triển của con người làm thước đo cho sự phát triển càng được khẳng định khi loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy những biến động, khi tính đa dạng trong các hình thức phát triển của xã hội loài người đang ngày càng thể hiện rõ nét trong cộng đồng quốc tế. Song dù phát triển ở các nước, các khu vực khác nhau, theo định hướng nào, thì mọi định hướng phát triển vẫn phải hướng tới giá trị nhân văn của nó - đó là hướng tới sự phát triển con người, phát triển con người toàn diện.
2. Phát triển con người Việt Nam toàn diện theo tư tưởng của Mác
Con người có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Báo cáo phát triển con người (HDR), công bố lần đầu tiên năm 1990 trong Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) nêu rõ: “Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và mục đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống dài lâu, mạnh khỏe và sáng tạo”. Theo đó, phát triển con người là quan điểm về phát triển của con người, vì con người và do con người chính là lấy con người làm trung tâm của sự phát triển. Để phát triển con người, cần phải đầu tư vào giáo dục, y tế, kỹ năng… để con người có thể làm việc một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất; cần phải bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế mà con người tạo ra được phân phối rộng rãi và công bằng; cần phải hướng vào việc tạo cho con người có cơ hội tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Mục tiêu của sự phát triển không chỉ dừng lại ở phát triển xã hội mà chính là phát triển con người, là đảm bảo cho con người phát huy khả năng sáng tạo, hưởng một cuộc sống khỏe mạnh, học hành và trường thọ, được hưởng các quyền tự do chính trị, quyền con người và cá nhân trong một môi trường đảm bảo. Đây là quan điểm phát triển con người phù hợp với tư tưởng của Các Mác về phát triển con người toàn diện.
Trung thành và phát triển sáng tạo học thuyết Mác, trong hành trình xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, con người được phát triển toàn diện, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo triết học Mác về con người và giải phóng con người vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm lý luận mácxít trong bối cảnh mới. Cụ thể, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã trên cơ sở xác định giải phóng dân tộc là cơ sở để giải phóng xã hội, giải phóng con người, để lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa Thu năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ thành chủ nhân một nước độc lập.
Xác định rõ, giải phóng con người là để phát triển con người, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận con người trong hệ giá trị của sự phát triển nhân cách; đã khẳng định Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là mục tiêu hàng đầu của đấu tranh cách mạng; là hệ giá trị vĩnh cửu cho sự phát triển của xã hội Việt Nam và trong triết lý hành động của mình, Người luôn coi độc lập là tiền đề, tự do là then chốt; hạnh phúc là đích đến. Người viết: “Mục đích của cách mạng là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, tự do, giàu mạnh. Làm cho nhân dân được hưởng hạnh phúc và xây dựng một xã hội sung sướng, vẻ vang”[12]. Trên hành trình đi đến đích đó, trong gần 90 năm qua, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều quán triệt, đều hướng tới mục tiêu giải phóng con người, phát triển toàn diện con người Việt Nam; từ đó, chú trọng chăm lo cho con người, gắn phát triển con người với phát triển kinh tế, văn hóa; xây dựng và mở rộng dân chủ, nâng cao các giá trị làm người…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khát vọng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân ta đã kiên cường đấu tranh giành được những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng (1991) đã khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người được giải phóng, nhân dân làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo”[13], “con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”[14]. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi cuả công cuộc đổi mới đất nước”. Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tuởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[15]. Đại hội Đảng X đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam… Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”[16].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”[17]. Văn kiện Đại hội XI của Đảng ghi rõ, xây dựng “con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật”[18] và “Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ”[19]. Tiếp đó, Nghị quyết số 33-NQ/TW khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã nêu rõ quan điểm về phát triển con người Việt Nam hiện nay: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”. Từ đó, Nghị quyết xác định nhiệm vụ: “1- Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách (…) Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người” (…) Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Tiếp đó, vấn đề phát triển con người toàn diện là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được khẳng định tại Đại XII của Đảng: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc”[20]. Một trong nhữngnhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020 là xây dựng “con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”[21] và “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”. Đây là quan điểm mới, phù hợp với thực tiễn phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng. Đây cũng là một bước tiến quan trọng của Đảng khi không chỉ nhận thức đúng về yêu cầu tất yếu phải phát triển con người mà đã biến thành nhiệm vụ, thành hoạt động thực tiễn phải được thực hiện đồng bộ với các nhiệm vụ quan trọng khác trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Thấu triệt rõ lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội Việt Nam là con người Việt Nam; lực lượng sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam là con người Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của Các Mác về con người, giải phóng con người trong điều kiện cụ thể của Việt Nam để chăm lo cho con người, phát triển con người Việt Nam toàn diện. Chú trọng phát triển con người, coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, trong hơn 30 năm đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về trí lực lẫn thể lực, cả về lý tưởng sống, lối sống, năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chỉ một ví dụ nhỏ về chỉ số phát triển con người - HDI (chỉ số phát triển con người dựa trên kết quả đạt được về thu nhập, giáo dục và y tế) của Việt Nam những năm gần đây cũng cho thấy, dù còn khó khăn, song Việt Nam đã có những cố gắng lớn trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; nhất là vấn đề giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng cao chất lượng đời sống của người dân. Mặc dù còn không ít hạn chế, song những thành tựu của Việt Nam về phát triển con người đã được thực tiễn chứng minh và không thể phủ nhận. HDI của Việt Nam liên tục tăng qua các năm. Nếu năm 2000, HDI của Việt Nam đạt 0,683 điểm (thuộc nhóm trung bình), thì năm 2010 là 0,733 điểm (xếp trong nhóm trung bình cao của thế giới). Năm 2014, Việt Nam được xếp thứ 116/188 nước (ở thứ hạng trên của nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình). Năm 2016, chỉ số HDI tổng quát của Việt Nam tăng 1%, lên 0,683 và ở mức trung bình, xếp hạng 115 trên tổng số 188 quốc gia, tăng 2 bậc so với năm trước. Chỉ số này được cải thiện nhờ tăng trưởng GDP, chỉ số y tế ở mức cao trong khi chỉ số giáo dục tăng chậm hơn. Chỉ số IHDI - đo lường mức độ bất bình đẳng cũng đã tương đối tốt, chênh lệch 17,8% so với chỉ số HDI, tốt nhất khu vực châu Á- Thái Bình Dương[22]…
Như vậy là, cùng với yêu cầu về phát triển kinh tế, việc chăm lo cho con người, chú trọng phát triển con người toàn diện - nguồn nhân lực quan trọng của mỗi quốc gia, dân tộc là tất yếu và rất cần thiết. Tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt và có hiệu quả các chính sách xã hội như: Xóa đói, giảm nghèo, lao động, việc làm, phát triển hệ thống y tế… là điều kiện để con người được phát triển toàn diện. Khi con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, thì sự phát triển của các lĩnh vực khác phải nhằm và chính là để tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần cho sự phát triển toàn diện của con người; và ở Việt Nam, vấn đề trọng yếu này luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo và thực hiện./.
[1] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr. 55.
[2] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.569.
[3] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.11.
[4] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.169.
[5] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.658.
[6] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.167.
[7] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.173.
[8] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.194.
[9] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.333.
[10] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 628.
[11]Michel Vadée: C. Mác - nhà tư tưởng của cái có thể, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, t.II, tr. 336.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.8, tr.265.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.8-9.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Sđd, tr.9.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.114.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.106.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, tr.76.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.105.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.126,128.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội, 2016, tr.434.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.78.
[22]Báo cáo phát triển con người 2016, với tiêu đề “Phát triển con người cho tất cả mọi người” được UNDP công bố tại Hà Nội, ngày 26/4/2017 (Hội thảo: Thúc đẩy phát triển dân tộc thiểu số - Không để ai bị bỏ lại phía sau).
TS Văn Thị Thanh Mai, TS Đinh Quang Thành