Tư tưởng - chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành động lực to lớn, hạt nhân quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, thôi thúc cả dân tộc vùng lên kháng chiến, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên phát triển rực rỡ của cách mạng Việt Nam: Kỷ nguyên cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, cổ vũ nhân dân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới tiếp tục đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Như chúng ta biết, quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã dày công nghiên cứu, phân tích đúng đắn bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và vấn đề cách mạng ở các nước thuộc địa. Người khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa muốn thành công triệt để phải tiến hành đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc, tự do, dân chủ cho nhân dân và quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo đã xác định mục tiêu, phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”(1). Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941), Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử tồn vong của quốc gia, dân tộc,… Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(2). Với mục tiêu tiên quyết giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, Đảng ta đã thức tỉnh, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước không phân biệt đảng phái, giai cấp, tín ngưỡng, nghề nghiệp,… tạo nên sức mạnh to lớn đánh Pháp, đuổi Nhật, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám (1945), khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giữ vững ngọn cờ độc lập, tự do, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân nêu cao ý chí, quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(3). Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhất quán thực hiện đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”; chú trọng giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, giữa độc lập dân tộc và người cày có ruộng; chăm lo xây dựng chế độ mới của dân, do dân và vì dân; thực hiện giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng đất cho nông dân sản xuất... Với chủ trương đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, từng bước giải quyết đúng đắn, hài hòa lợi ích của các bộ phận, Chính phủ kháng chiến vừa cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, vừa giữ vững, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc cùng chung sức, đồng lòng chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là một trong những động lực tạo ra sức mạnh to lớn để nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, chấm dứt sự đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước ta.
Trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Nhờ đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, sáng tạo, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát huy sức mạnh của tiền tuyến và hậu phương, dân tộc và thời đại để đánh thắng kẻ thù xâm lược, hoàn thành mục tiêu của cách mạng. Đặc biệt, khi đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đồng thời sử dụng không quân và hải quân tăng cường đánh phá miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố đanh thép: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(4). Lời hiệu triệu của Người thể hiện ý chí, quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam, động viên mạnh mẽ lòng yêu nước, dũng khí cách mạng, thúc giục quân và dân cả nước vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động phức tạp, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mặc dù, công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu rơi vào khủng hoảng, sụp đổ, nhưng với đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo, công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo không những vẫn đứng vững mà còn tiếp tục giành những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thành tựu nổi bật và cơ bản là chúng ta đã giữ vững được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; từng bước phá thế bao vây cô lập của kẻ thù, ngăn chặn và đẩy lùi mọi mưu đồ chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch, phản động; tạo môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực tuy hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, song tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức đan xen. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố… tiếp tục diễn biến phức tạp. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, năng lượng, lương thực, an ninh nguồn nước, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh tiếp tục gia tăng. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á dù đã hình thành cộng đồng và tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị ngày càng quan trọng, nhưng cũng là nơi cạnh tranh chiến lược quyết liệt giữa một số nước lớn; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp cũng như uy tín quốc tế của đất nước không ngừng được nâng cao; việc thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, tham gia các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới và hội nhập quốc tế đạt tầm, mức sâu rộng hơn... Tuy vậy, chúng ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, thậm chí có mặt trầm trọng hơn. Kinh tế thoát khỏi tình trạng suy giảm, dần phục hồi đà tăng trưởng, nhưng chưa vững chắc, sức cạnh tranh còn thấp. Các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá ta về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa… Cùng với đó, tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên là mầm mống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không thể xem thường. Tình hình đó đặt ra những yêu cầu mới đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Hơn lúc nào hết, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với tư tưởng chỉ đạo “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Quán triệt và thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát do Đại hội XII của Đảng đề ra: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(5). Để phát huy hơn nữa giá trị tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản, trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục quán triệt cho các cấp, ngành, địa phương, lực lượng và toàn dân nắm vững, thấu suốt tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong điều kiện mới.
Đây là vấn đề rất quan trọng, làm cơ sở để định hướng tư tưởng và hành động, đồng thời xác định nội dung, phương thức, lộ trình cùng những bước đi phù hợp trong triển khai thực hiện. Theo đó, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” phải được nhận thức sâu sắc, toàn diện và được vận dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, vấn đề tiên quyết, cơ bản nhất là giữ vững độc lập, tự chủ về chính trị mà mấu chốt là độc lập, tự chủ về đường lối của Đảng, bảo đảm đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được hoạch định và kết tinh bởi tâm huyết, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, phục vụ cho mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đường lối đó phải trên cơ sở trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được vận dụng một cách khoa học, sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam và trở thành định hướng phát triển, nền tảng tư tưởng của toàn xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, độc lập, tự chủ phải bảo đảm thực hiện tốt phương châm: “đổi mới nhưng không đổi hướng”, “hội nhập nhưng không hòa tan” trong thế giới đa cực với nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp.
Muốn vậy, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn để tăng cường đoàn kết, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của mình, trước hết là nâng cao năng lực phân tích, đánh giá, kết luận tình hình thế giới, khu vực và trong nước, khả năng hoạch định đường lối đúng đắn, sáng tạo trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn của đất nước. Coi trọng phát huy năng lực nội sinh, tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc và khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân trong giải quyết các vấn đề trọng đại của đất nước. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh phản bác sự xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị.
Cùng với việc giữ vững độc lập, tự chủ về chính trị; cần quán triệt và thực hiện tốt những nội dung về độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh,… và đối ngoại, nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, nhất quán giữa đường lối chiến lược và chủ trương, chính sách cụ thể của tất cả các mặt, lĩnh vực, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đây là nguyên tắc chiến lược trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Thực hiện tốt nguyên tắc chiến lược trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phát huy giá trị hiện thực của tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong điều kiện mới.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ cũng là nguyên tắc chiến lược trên, đòi hỏi chúng ta cần nhận thức, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm bảo vệ Tổ quốc của Đảng được thể hiện tập trung trong các văn kiện, nhất là Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Trên cơ sở đó, tập trung xây dựng nền quốc phòng độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm; trong đó, coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Trong bối cảnh hội nhập vừa hợp tác, vừa đấu tranh, việc nhận thức về độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong lĩnh vực này cần hết sức linh hoạt, biện chứng, khắc phục sự xơ cứng trong tư duy; đồng thời, phát huy được năng lực nội sinh và tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài thông qua hợp tác quốc tế, phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Lực lượng vũ trang nhân dân, đặc biệt là Quân đội nhân dân cần phát huy hơn nữa vai trò nòng cốt, chủ động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể Trung ương và địa phương kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc trong mọi tình huống; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước; tăng cường đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch; phản bác những thông tin và luận điệu sai trái; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống mang tính toàn cầu. Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh làm nòng cốt cho toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng chính trị - tư tưởng, kiến thức quốc phòng và an ninh cho cán bộ, đảng viên và toàn dân. Coi trọng xây dựng các phương án động viên nhân tài, vật lực cho nhiệm vụ quốc phòng - an ninh cũng như kế hoạch động viên quốc phòng ở mỗi địa phương, từng khu vực, địa bàn và trên phạm vi cả nước. Trước mắt, cần tích cực chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ.
Ba là, coi trọng phát huy dân chủ, thường xuyên chăm lo đời sống, lợi ích chính đáng của nhân dân.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi vấn đề độc lập, thống nhất đất nước gắn liền với tự do cho dân tộc và ấm no hạnh phúc cho nhân dân, trước hết là cho nhân dân lao động. Người đã từng khẳng định: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(6), “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi dân được ăn no, mặc đủ” (7). Vì thế, phát huy dân chủ và thường xuyên chăm lo đời sống, lợi ích chính đáng của nhân dân là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, nhằm hiện thực hóa ngày càng tốt hơn tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong hoàn cảnh mới.
Để làm tốt vấn đề này, các cơ quan, đơn vị toàn quân căn cứ vào tình hình cụ thể của địa bàn đóng quân để tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương có biện pháp phù hợp nhằm phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, tạo mọi thuận lợi cho nhân dân tham gia rộng rãi và thường xuyên vào công tác quản lý nhà nước, kinh tế, xã hội và tham gia giải quyết các vấn đề nảy sinh ở địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đội quân công tác, đội quân sản xuất, chủ động tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền các địa phương kết hợp chặt chẽ giữa đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh, gắn với bảo đảm an sinh xã hội trên các vùng, miền, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tiếp tục giúp nhân dân triển khai các mô hình kinh tế, xây dựng nông thôn mới; huy động mọi nguồn lực của địa phương, xã hội, đơn vị cùng Nhà nước chăm lo ngày một tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần cho các đối tượng chính sách, gia đình và người có công với cách mạng; tham gia xóa đói, giảm nghèo trên các vùng, miền và phối hợp với các địa phương tập trung chăm lo bảo đảm việc làm, cải thiện điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân một cách tốt nhất theo khả năng thực tế của đất nước.
Kỷ niệm 50 năm thực hiện tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng nhận rõ hơn tầm vóc, ý nghĩa và giá trị to lớn, xuyên suốt của nó trong tiến trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nội dung quan trọng, có giá trị lý luận và thực tiễn, lịch sử và hiện thực sâu sắc, tiếp tục soi đường để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vận dụng thực hiện trong tình hình mới./.
Chú thích:
(1). Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.1.
(2). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.113.
(3). Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 480.
(4). Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 108.
(5). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 76.
(6). Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 56.
(7). Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 152.
Đại tướng Ngô Xuân Lịch
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng