Chủ nghĩa dân túy (populist) vốn đã xuất hiện rất lâu trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế những năm giữa thế kỷ XIX ở Pháp. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa xã hội dân túy là cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân, chủ yếu là nông dân, đòi ruộng đất, đòi thủ tiêu các hình thức bóc lột của chế độ nông nô. Bản chất của chủ nghĩa dân túy là sự hỗn tạp những tư tưởng dân chủ nông nghiệp với những ước mơ xã hội chủ nghĩa, với hy vọng bỏ qua chủ nghĩa tư bản - một biến dạng của chủ nghĩa xã hội không tưởng tiểu tư sản ở nước Nga - đó là hệ tư tưởng của phái dân chủ nông dân.
Đấu tranh chống chủ nghĩa dân túy là vấn đề có tính quy luật trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế qua mọi thời kỳ.
Hình thức cổ điển đầu tiên nhưng không phải là duy nhất của hệ tư tưởng dân chủ như thế là chủ nghĩa dân túy Nga. Thực tiễn của phong trào giải phóng dân tộc thế kỷ XX đã chứng minh thực điều dự đoán của V.I. Lênin về tính chất quốc tế của chủ nghĩa dân túy, về những nét dân túy trong hệ tư tưởng dân chủ nông dân ở phương Đông (chủ nghĩa Tôn Dật Tiên, chủ nghĩa Gan-đi…), mặc dù những hình thức hiện đại của hệ tư tưởng dân túy khác rất nhiều với chủ nghĩa dân túy Nga. Cần nêu lên rằng trong điều kiện ngày nay, phái dân chủ dân túy có những khả năng khác hẳn về chất và rộng lớn hơn nhiều. Sự so sánh lực lượng xã hội trong nội bộ những nước đang phát triển và trên vũ đài quốc tế cho phép những đại biểu tiên tiến của nó thực hiện một chương trình cải cách xã hội sâu sắc, hướng sự phát triển của những nước này theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Những sự kiện tháng Sáu năm 1848 ở Pháp và tấn bi kịch Công xã Pa-ri đã có ảnh hưởng hết sức quan trọng tới sự hình thành hệ tư tưởng của chủ nghĩa xã hội dân túy. Cuộc đấu tranh chính trị ở Nga triển khai trên cơ sở cuộc cải cách nông dân năm 1861 đã cho thấy rõ tính chất phản dân chủ của chủ nghĩa tự do, sự cần thiết phải có phong trào độc lập của quần chúng để đạt được sự giải phóng cũng như ở các nước phương Tây. Thông qua A.M. Ghéc- txen và N.P. Ô-ga-ri-ốp, N.G. Tséc-nư-sép-xki và những nhà cách mạng những năm 70, phái dân chủ nông dân Nga đứng về phía chủ nghĩa xã hội. Nhưng bởi vì những điều kiện khách quan của nước Nga vào nửa cuối thế kỷ XIX đã đặt trước phong trào giải phóng những nhiệm vụ dân chủ tư sản chứ không phải xã hội chủ nghĩa và đã làm cho giai cấp nông dân trở thành lực lượng cách mạng chủ yếu, cho nên từ những hoài bão và những cương lĩnh xã hội chủ nghĩa chủ quan của chủ nghĩa xã hội dân túy trên thực tế đã hình thành một cương lĩnh của phái dân chủ nông dân. Ghéc-txen đưa ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội dân túy sau cách mạng năm 1848, đi đến kết luận rằng nước Nga nông dân hoàn toàn không nhất thiết phải “đi qua mọi giai đoạn phát triển của châu Âu”, rằng sự phát triển của nó có thể đi theo một con đường “độc đáo”, bỏ qua chủ nghĩa tư bản, với cái tiền đề là chế độ ruộng đất công xã. Theo sau Ghéc-txen, Tséc-nư-sép-xki phát triển tư tưởng cho rằng nước Nga có thế phát triển bỏ qua chủ nghĩa tư bản và chuyển sang chủ nghĩa xã hội thông qua công xã nông dân, gắn khả năng đất nước có thể chuyển sang chủ nghĩa xã hội thông qua công xã với việc giải quyết những nhiệm vụ như thủ tiêu chế độ chuyên chế và chuyển giao không bồi thường toàn bộ ruộng đất cho nông dân.
Sau cuộc cải cách nông dân năm 1861, chủ nghĩa xã hội dân túy trở thành khuynh hướng chiếm ưu thế trong phong trào dân chủ ở Nga, nó có những nét mới nảy sinh ra do việc biến lý luận dân túy thành cương lĩnh hoạt động thực tế trực tiếp của tầng lớp trí thức bình dân “chủ nghĩa dân túy có hiệu lực”.Vào những năm 70 của thế kỷ XIX, các nhà tư tưởng của chủ nghĩa xã hội dân túy đã không thống nhất với nhau về cách quan niệm các hình thức và các phương pháp hoạt động cách mạng. Giữ vai trò nổi bật nhất là khuynh hướng nổi loạn (chủ nghĩa Ba-cu-nin). Nhà tư tưởng của khuynh hướng tuyên truyền là P.L. La-vrốp đã khẳng định rằng giới trí thức, cũng như nhân dân đều không sẵn sàng để thực hiện bước ngoặt xã hội, rằng trước khi tiến hành cách mạng phải có sự tuyên truyền trong một thời gian dài, một cách có hệ thống những tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Sau đó ít lâu hình thành khuynh hướng thứ ba của chủ nghĩa xã hội dân túy là khuynh hướng Blăng-ki. Người sáng lập ra khuynh hướng này là P.N. Tơ-ca-sép coi âm mưu chính trị của một đảng cách mạng kéo theo một cuộc nổi loạn của quần chúng là “phương tiện thích đáng nhất của một cuộc đảo lộn chính trị”. Tính chất đặc biệt thiển cận của chủ nghĩa xã hội dân túy những năm 70 là không hiểu được ý nghĩa của cuộc cách mạng chính trị và cuộc đấu tranh vì những quyền chính trị và quyền tự do.
Các đại diện của phái dân túy tự do chủ nghĩa đã tiến hành một cuộc đấu tranh quyết liệt với chủ nghĩa Mác và trong cuộc đấu tranh này họ đã bị V.I.Lênin đập tan về mặt tư tưởng.Vào đầu thế kỷ XX, các quan điểm dân túy được các đảng viên đảng xã hội chủ nghĩa - cách mạng tiếp thu, và những lời lẽ trống rỗng xã hội chủ nghĩa của họ chỉ là nhằm che đậy tư tưởng cách mạng tiểu tư sản. Đảng xã hội chủ nghĩa - cách mạng thường xuyên dao động giữa việc lệ thuộc vào sự lãnh đạo của các nhà tự do chủ nghĩa và việc đấu tranh kiên quyết chống chế độ địa chủ chiếm hữu ruộng đất và nhà nước nông nô. Thực chất thỏa hiệp tiểu tư sản của các đảng viên đảng xã hội chủ nghĩa-cách mạng biểu hiện đặc biệt rõ vào năm 1917, khi họ (cùng với bọn men-sê-vích và bọn dân chủ lập hiến), sau khi chế độ quân chủ của Nga hoàng sụp đổ, đã trở thành một đảng cầm quyền và bằng chính sách liên minh với tư sản đã tỏ rõ sự đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa xã hội và dân chủ, và đã biến thành một đảng của bọn cu-lắc đầu sỏ.
Chủ nghĩa dân túy là một trào lưu xã hội chủ nghĩa không tưởng tiểu tư sản ở Nga. Nó chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa vào nông dân và công xã nông thôn. Phủ nhận sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga, phủ nhận vai trò cách mạng và lãnh đạo của giai cấp vô sản. Lúc này, chủ nghĩa dân túy lại khẳng định chủ nghĩa tư bản có thể đi vào “đời sống nhân dân” mà không làm cho nông thôn phá sản, “không bóc lột” nông dân lao động. Chủ nghĩa dân túy đưa ra những chương trình cải cách nhỏ không hề đụng đến kinh tế phú nông, coi mâu thuẫn giai cấp ở nông thôn chỉ là một “tật xấu” tầm thường, mà một nhà nước “thường dân” có thể dễ dàng khắc phục. Thực chất đó là thái độ thỏa hiệp với Nga Hoàng, là từ bỏ cuộc đấu tranh chống chế độ Nga Hoàng, hy vọng vào chính phủ Nga Hoàng đứng trên các giai cấp có khả năng giúp đỡ nhân dân cải thiện đời sống của họ.
Ngay từ khi chủ nghĩa dân túy ra đời, nó đã bộc lộ bản chất phản động; do đó, V.I. Lênin gọi phái “dân túy” là kẻ thù công khai của phong trào cách mạng Nga và đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa dân túy để bảo vệ sự trong sáng, cách mạng của chủ nghĩa Mác. Bởi vì, chủ nghĩa “dân túy” đang cản trở việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân Nga. Do đó, muốn đem chủ nghĩa Mác kết hợp với phong trào công nhân Nga, muốn thành lập chính Đảng mácxít cách mạng Nga, nhất thiết phải đập tan ảnh hưởng của chủ nghĩa dân túy trong phong trào cách mạng Nga nói chung và trong phong trào công nhân Nga nói riêng.
Plêkhanốp và nhóm “giải phóng lao động Nga” đã làm việc đó nhưng chỉ có cuộc đấu tranh của V.I. Lênin mới đập tan được chủ nghĩa dân túy. Trong tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào, họ đấu tranh chống những người dân chủ-xã hội ra sao” (1894), “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga” (1899), và bài “Gửi nông dân nghèo” (1903) đã liên tiếp đập những đòn chí tử vào chủ nghĩa dân túy.
Phái “Mác xít hợp pháp” là nhóm trí thức tư sản tự do, núp dưới chiêu bài chủ nghĩa Mác, đưa ra những quan điểm chính trị trên sách báo được Nga Hoàng cho phép xuất bản. Phái này đã phê phán chủ nghĩa “dân túy” là kẻ bảo vệ nền sản xuất nhỏ, nhưng lại tán dương chủ nghĩa tư bản, tìm cách làm cho chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân thích nghi với chủ nghĩa tư bản.
V.I.Lênin tạm thời bắt tay với phái này để cùng chống “dân túy”, nhưng về nguyên tắc vẫn kịch liệt phê phán phái “Mác xít hợp pháp” là cắt xén chủ nghĩa Mác, mưu toan làm cho chủ nghĩa Mác thích nghi với chủ nghĩa tư bản, là xét lại chủ nghĩa Mác về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về chuyên chính vô sản.
V.I.Lênin gọi phái “dân túy” là kẻ thù công khai và phái “Mác xít hợp pháp” là kẻ thù giấu mặt của phong trào cách mạng Nga. Về sau, phái “Mác xít hợp pháp” chuyển thành đảng của giai cấp tư sản tự do, hoàn toàn chống lại chủ nghĩa Mác.
Phái “kinh tế” là trào lưu cơ hội trong phong trào công nhân Nga, có cơ quan ngôn luận riêng là tạp chí “Sự nghiệp công nhân”. Đó là mối nguy cơ đặc biệt đối với cách mạng Nga. Quan điểm cơ bản của phái “kinh tế” được tuyên bố công khai trắng trợn như sau: đấu tranh cho địa vị và quyền lợi kinh tế, đấu tranh chống chế độ tư bản trên cơ sở những lợi ích hàng ngày, và bãi công là phương tiện của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Còn đấu tranh chính trị là công việc của giai cấp tư sản tự do.Thực chất đó là phủ nhận vai trò chính trị độc lập của giai cấp vô sản, phủ nhận việc phải có chính đảng độc lập của giai cấp vô sản, biến giai cấp vô sản phụ thuộc về chính trị vào giai cấp tư sản tự do. Về tổ chức đó là quan điểm bè phái, chia rẽ. Vì vậy, phái “kinh tế” ở Nga chỉ là một biến tướng của chủ nghĩa cơ hội trong Quốc tế II từ sau khi Ph.Ăngghen mất năm 1895.
V.I.Lênin đã đập tan quan điểm của phái “kinh tế”: chính trị là công việc của giai cấp tư sản; đảng không nên là lực lượng lãnh đạo và can thiệp vào tính tự phát của phong trào công nhân mà phải chờ đợi phong trào công nhân tự phát, vì phong trào tự phát tất yếu cũng sẽ tạo nên sự giác ngộ xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân. Chính tác phẩm “Làm gì?”, Lênin đã nêu rõ: Đảng mácxít là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa Mác; nêu rõ tầm quan trọng của lý luận với phong trào tự phát của công nhân và đối với mọi hoạt động của Đảng. Đảng là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, là người lãnh đạo phong trào tự phát của công nhân. Qua đó, Lênin cũng vạch trần nguồn gốc của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân túy.
Tóm lại, tất cả các phái “dân túy”, “mác xít hợp nhất”, “kinh tế” về lý luận thì phủ nhận đấu tranh giai cấp, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản; về chính trị thì hạ thấp đấu tranh chính trị mà đề cao đấu tranh kinh tế, chỉ thấy lợi ích trước mắt không thấy lợi ích lâu dài, phủ nhận cách mạng bạo lực, đề cao đấu tranh “hợp pháp”, “hòa bình”; về tổ chức thì sùng bái tính tự phát, tính tản mạn tự do tiểu tư sản, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ…
Sự kiên quyết, tính hiệu quả của việc vạch trần nguồn gốc, bản chất và đập tan chủ nghĩa dân túy ở Nga của V.I.Lênin có ý nghĩa nhiều mặt đối với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa dân túy ở Việt Nam hiện nay. Trong bài viết “Chủ nghĩa dân túy và những cảnh báo đối với Việt Nam”, đồng chí Võ Văn Thưởng - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương khẳng định: “Liệu chủ nghĩa dân túy có xuất hiện ở Việt Nam khi mà trên thế giới nguy cơ của nó đang hiện hữu và có xu hướng mở rộng? Câu trả lời là: Không có gì là không thể”. Từ nhận định đó, chúng tôi cho rằng, cũng như chủ nghĩa cơ hội, xét lại, chủ nghĩa dân túy ở Việt Nam không có cơ sở kinh tế, chính trị - xã hội để tồn tại dưới dạng “chủ nghĩa”, nó chỉ tồn tại với tính cách là quan điểm, tư tưởng không thành hệ thống lý luận và biểu hiện ở phát ngôn, hành động vụn vặt của một số người, nhưng sức nguy hiểm của các quan điểm, tư tưởng và hành động này là không nhỏ. Hiện nay, ngoài những biểu hiện được đồng chí Võ Văn Thưởng nhận diện ở trên, chúng ta có thể thấy những biểu hiện khác, đó là:
Một là, đòi xét lại những nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, biến Đảng thành tổ chức ô hợp; đòi đa nguyên chính trị, đa Đảng đối lập; đòi để nhân dân tự chọn món ăn tinh thần, không cần định hướng, quản lý trong lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, và đòi dân chủ một cách tự do, vô tổ chức, vô hạn độ, dân chủ không gắn với kỷ luật, kỷ cương…
Hai là, xuyên tạc, bôi đen lịch sử tiến đến phủ nhận lịch sử, cho những năm tháng hào hùng của cách mạng vô sản dựng nước và giữ nước là “thời kỳ đen tối”, “sai lầm” không thể chấp nhận. Từ đó, ra sức xuyên tạc lịch sử, hạ bệ lãnh tụ, nói xấu Đảng Cộng sản Việt Nam, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa chân chính, để chấp nhận “chủ nghĩa xã hội nhân đạo, dân chủ”- một biểu hiện của tư tưởng dân túy - cái mà họ cho là xã hội duy nhất đem lại cuộc sống xứng đáng cho con người.
Ba là, thông qua những tuyên bố gây sốc cộng với những hành vi và hình ảnh “mị dân”, lấy lòng đám đông trong giải quyết những vấn đề nóng bỏng, dễ gây bức xúc trong xã hội, chạm được những lợi ích trước mắt của một bộ phận nhân dân, lại có truyền thông hậu thuẫn và tung hô xuất hiện dày đặc trên các phương tiện thông tin đại chúng đều mang màu sắc dân túy. Ở nước ta, tệ tham nhũng, tình trạng quan liêu trì trệ, coi thường quốc pháp, sự lộng hành của các nhóm lợi ích, sự phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội cùng những rủi ro của kinh tế thị trường đã và đang tạo mảnh đất màu mỡ cho những kẻ dân túy, chủ nghĩa dân túy nảy sinh.
Để đấu tranh phòng ngừa và đập tan chủ nghĩa dân túy ở Việt Nam hiện nay; một mặt, phải quán triệt và vận dụng sáng tạo tinh thần cách mạng tiến công, tấn công trực diện và không khoan nhượng đối với chủ nghĩa dân túy như V.I.Lênin đấu tranh chống chủ nghĩa dân túy ở Nga đã trình bày ở trên. Mặt khác, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân trong đấu tranh chống chủ nghĩa dân túy. Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, không có khoa học nào vô tư đứng trên giai cấp, đứng ngoài chính trị mà đều phục vụ mục đích chính trị của giai cấp nhất định - giai cấp thống trị xã hội. Do đó, thiếu một lập trường kiên định, vững vàng thì sớm muộn sẽ rơi vào những quan điểm sai lầm và bị giai cấp tư sản đánh gục. Chỉ kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân mới có thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng, nhân sinh quan cách mạng để xem xét, nhận định, phân tích một cách khách quan toàn diện các hiện tượng chính trị - xã hội đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên thế giới, khu vực và trong nước để có thái độ, trách nhiệm và đề ra quyết sách chính trị đúng đắn giải quyết hợp lý, hợp tình mọi vấn đề chính trị - xã hội. Vì vậy, hơn lúc nào hết, để đấu tranh giành thắng lợi, Đảng ta phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời kiên trì đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh chống những kẻ dân túy và đấu tranh chống kẻ cơ hội, xét lại. Vì chúng thường cấu kết với nhau, dựa vào nhau để chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TƯ4 khóa XII của Đảng và Chỉ thị số 05/CT-TW của Bộ Chính trị.
Thứ ba, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân nhận diện những biểu hiện, nguy cơ, tác hại và tính tất yếu phải đấu tranh chống chủ nghĩa dân túy ở Việt Nam hiện nay. Theo đó, phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ địa vị thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, tạo ra chất miễn dịch tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng để chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của những kẻ dân túy.
Thứ tư, tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước về lĩnh vực truyền thông, nhất là hoạt động của báo chí trong tình hình mới. Đối với báo chí, khi tự do hóa được mở rộng, rất có thể nhiều phương tiện thông tin đại chúng sẽ bị các nhà chính trị dân túy sử dụng làm công cụ. Do đó, trong khi tôn trọng nguyên tắc của tự do báo chí; cũng cần nâng cao tính định hướng chính trị, định hướng dư luận tích cực của báo chí.
Ngay từ bây giờ, cả hệ thống chính trị và mỗi công dân cần nhận thức rõ, biết cảnh giác và phải từng bước đấu tranh với những biểu hiện của chủ nghĩa dân túy dưới mọi màu sắc./.
Thiếu tá, Tiến sĩ Hà Sơn Thái
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Nguồn: Báo điện tử Đảng Cộng sản