Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã rèn đúc và kết tinh nên nhiều giá trị của văn hóa, con người Việt Nam, tạo nên bản sắc bản sắc cộng đồng, quốc gia - dân tộc. Bản sắc đó là cái gốc của nền văn hóa, hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu trình độ phát triển của một dân tộc, mà còn vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hóa là nói đến những gì là tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ”, “còn những gì xấu xa, việc làm ti tiện, đớn hèn, những hành động phi pháp, bỉ ổi,… là vô văn hóa, phi văn hóa, phản văn hóa”(1).
Văn hóa ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng đồng là một trong những “lát cắt” quan trọng phản ánh văn hóa cộng đồng, quốc gia - dân tộc; phản ánh vẻ đẹp tâm hồn, là cánh cửa mở ra mọi thế giới giữa con người với nhau. Văn hóa ứng xử được lưu giữ trên cơ sở có sự tiếp biến trong mỗi thế hệ và các giai đoạn lịch sử khác nhau. Mặc dù xã hội thay đổi, nhưng văn hóa - giao tiếp ứng xử luôn có tầm quan trọng đặc biệt, bởi nó thể hiện triết lý sống, tư duy, hành động của một cộng đồng trong ứng xử và giải quyết những mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, với xã hội.
Bên cạnh các quy định thành văn, văn hóa ứng xử còn được “mặc định” thừa nhận ở những “quy ước” bất thành văn; chứa đựng những giá trị đạo đức, văn hóa nhất định.
ỨNG XỬ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT
Trong cuộc sống, người Việt Nam luôn quan tâm, coi trọng vấn đề giao tiếp, coi đây là thước đo nhận biết và đánh giá bản chất, tri thức và tầm văn hóa của một con người. Nhìn chung, cách ứng xử của người Việt Nam thiên về tình cảm, lấy tình cảm làm nguyên tắc, nên luôn đề cao vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ sao cho vui vẻ, hài hòa, tránh hành xử khiếm nhã, gây mất hòa khí: “Lời chào cao hơn mâm cỗ”; “Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”; “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang/ Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”,…
Hầu hết các cộng đồng, tộc người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam đều có chung một “hệ quy chiếu” trong xác định phép tắc ứng xử thông qua “lời ăn tiếng nói”. Theo đó, lời nói có thể mang lại niềm vui, tình thân thiện, nhưng có khi cũng gây nên những tiêu cực, thậm chí là bi kịch, hận thù. Vì thế, cổ nhân đã từng răn dạy, cảnh báo: “Vạ từ miệng mà ra, họa từ miệng mà vào”, “Ăn phải nhai, nói phải nghĩ”, “Rắn cắn còn có thuốc chữa, người cắn không có thuốc chữa” (Ngạn ngữ H'Mông). Người có văn hóa là phải biết sử dụng “nhã ngữ” - nói năng nhã nhặn, ôn tồn, “thấu lý đạt tình” thay cho cách nói năng thô lỗ, khó nghe: “Nói ngọt lọt đến xương”, “Người thanh tiếng nói cũng thanh/ Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu”; đặc biệt là phải biết lấy “Tâm”, lấy “Nhẫn” khi nói hoặc bàn về chính sự hoặc những việc trọng đại…
Truyền thống của người Việt Nam vốn trân trọng nghĩa tình, đề cao danh dự; khi khó khăn, lúc có việc thì đến với nhau, giúp đỡ nhau bằng tấm lòng chân thành, xuất phát từ cái tâm trong sáng, chứ không phải vì “miếng ăn” hay mưu cầu vụ lợi. Vậy nên trong văn hóa ứng xử, người Việt rất coi trọng tinh thần, đặt tinh thần lên hàng đầu, lấy nụ cười để “hóa giải” những xung đột, mâu thuẫn không đáng có trong cuộc sống thường nhật; coi nụ cười là một “phép bảo đảm” cho sự hiếu khách, hòa thuận, thành tâm. Vì được coi là “sứ giả” đầu tiên trong giao tiếp, là yếu tố hàng đầu gây thiện cảm, cho nên “lời ăn, tiếng nói, nụ cười” được xác định là một phần quan trọng trong ứng xử truyền thống của người Việt Nam...
Truyền thống văn hóa ứng xử của người Việt Nam còn được biểu hiện trong nhiều khía cạnh khác của cuộc sống, được tiền nhân tích lũy thành kiến thức, kinh nghiệm qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là lòng nhân ái: “Thương người như thể thương thân”. Đó là lòng vị tha: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Đó là tinh thần gắn bó, cố kết cộng đồng, tương thân tương ái, đoàn kết, trọng tình - trọng nghĩa - trọng đạo: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống những chung một giàn”, “Lá lành đùm lá rách. Lá rách ít đùm lá rách nhiều”, “Kính trên nhường dưới”, “Tôn sư trọng đạo”. Đó còn là những điều răn dạy không chỉ mang ý nghĩa đạo đức trong góc độ gia đình, mà sâu xa hơn chính là văn hóa ứng xử trong xã hội: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, “Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”…
Nhìn chung, những giá trị truyền thống tiêu biểu trong văn hóa ứng xử của người Việt Nam bên cạnh tính dân tộc còn mang tinh thần nhân loại, vì đó cũng là một phần quan trọng của giá trị chân - thiện - mỹ mà con người luôn hướng đến.
ỨNG XỬ TRONG THỜI ĐẠI SỐ VÀ TOÀN CẦU HÓA
Ngày nay, việc giao tiếp, ứng xử của con người Việt Nam đã ngày càng mở rộng ra ngoài phạm vi địa phương, cộng đồng, quốc gia; là sự giao thoa nhuần nhuyễn giữa văn hóa phương Đông và phương Tây, giữa cái mới và cái cổ điển. Đặc biệt, trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, chúng ta đã luôn chú trọng cách ứng xử có văn hóa trong các quan hệ quốc tế nhằm phát huy tối đa “sức mạnh mềm” của quốc gia - dân tộc.
Dù ở thời kỳ nào cũng vậy, văn hóa ứng xử của người Việt Nam luôn lấy chữ “Tâm”, chữ “Nhẫn” làm nền tảng giao tiếp, biểu hiện ở sự cảm thông, chia sẻ, đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, luôn khiêm tốn, nhẫn nại, suy nghĩ thấu đáo, chủ động nhường nhịn để mối quan hệ được hòa thuận, êm đẹp, nhưng cũng rất kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, bảo vệ lẽ phải, khẳng định tư duy, trí tuệ, khí phách của một dân tộc không chịu khuất phục, không chịu làm chư hầu, lệ thuộc, bảo đảm “trong ấm, ngoài êm”, giữ vững độc lập, tự chủ, ngăn chặn họa xâm lăng, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia và vùng lãnh thổ; có quan hệ thương mại với 224 đối tác và quan hệ hợp tác với hơn 500 tổ chức quốc tế; đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Việt Nam đã đàm phán, ký kết và thực thi 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các Hiệp định tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA và UKFTA. Đặc biệt, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia đi đầu khu vực trong việc hình thành các khuôn khổ hợp tác kinh tế đa phương. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(2). Những thành tựu to lớn đó có sự đóng góp quan trọng và thành công của văn hóa ứng xử - đối ngoại Việt Nam trong những năm qua.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải ai cũng nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa ứng xử và cũng không phải tất cả mọi người đều biết cách ứng xử có văn hóa, biết cách phát huy những giá trị văn hóa ứng xử tốt đẹp mà ông cha để lại. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, dưới tác động của toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, đã và đang đặt ra những thách thức lớn trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh những ưu thế của không gian mạng và các phương tiện truyền thông hiện đại trong việc tạo điều kiện cho sự giao lưu văn hóa được mở rộng trên phạm vi toàn cầu, thì mặt trái của nó là sự du nhập và tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ các sản phẩm, lối sống “lai căng” bên ngoài; chứa đựng nhiều nguy cơ phá vỡ hoặc làm băng hoại những giá trị văn hóa truyền thống. Thực tiễn cho thấy, bên cạnh nhiều nét đẹp vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống của chúng ta với những con người luôn biết cống hiến, đồng cảm, chia sẻ, giúp đỡ người khác, thì cũng có không ít người dân, nhất là giới trẻ đang bị ảnh hưởng bởi lối sống ngoại lai, buông thả, có dấu hiệu quay lưng với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Sự nhầm lẫn giữa cá tính và sự lập dị khiến cho họ luôn muốn thể hiện một cách cực đoan và kỳ quái bản thân mình. Mặt khác, cuộc sống dư giả về vật chất khiến một bộ phận giới trẻ có lối sống hưởng thụ, ích kỷ, đặt cái riêng trên cái chung, đặt lợi ích cá nhân trước lợi ích tập thể, chối bỏ trách nhiệm với cộng đồng, sống không có lý tưởng. Các giá trị đạo đức truyền thống, đạo đức trong mỗi gia đình, cũng như văn hóa ứng xử trong xã hội đang có biểu hiện xuống cấp trầm trọng và dường như, cách ứng xử thiếu văn hóa đang dần trở thành một căn bệnh có sức lây lan nhanh trong xã hội. Không khó để chúng ta bắt gặp những hành vi lệch chuẩn trong ứng xử, nhất là ở nơi công cộng thời gian qua.
Trong thời đại số, nhiều người coi mạng xã hội là nơi thể hiện sự tự do, là thế giới riêng, khó kiểm soát, nên mặc sức thể hiện quan điểm cá nhân một cách cực đoan, thái quá; lợi dụng mạng xã hội để có những hành vi thiếu văn hóa, không đúng chuẩn mực đạo đức xã hội, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác, thậm chí bị các thế lực xấu lợi dụng để kích động, nhằm gây bất ổn chính trị, xã hội,… Trong khi đó, với một lượng lớn những người trẻ tuổi tham gia tương tác trên mạng xã hội khi tâm sinh lý vẫn chưa ổn định, chưa đủ kiến thức xã hội và bản lĩnh vững vàng thì việc không có chính kiến, thậm chí là bị ảnh hưởng tiêu cực là khó tránh khỏi. Nhiều người vô cớ bị nói xấu, lăng mạ trên không gian mạng đã rơi vào tình trạng trầm cảm, hoảng loạn; không ít các vụ việc đau lòng đã xảy ra liên quan đến cách ứng xử phản văn hóa trên không gian mạng; một số trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp... Đó là những mảng màu u ám đã và đang làm ảnh hưởng đến bức tranh văn hóa toàn cảnh trong sáng của đất nước; gióng lên những hồi chuông cảnh báo về cách ứng xử của con người trong đời sống xã hội hiện nay.
CHÚ TRỌNG CỦNG CỐ, XÂY DỰNG, PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC
Để khắc phục những hiện tượng lệch chuẩn về cách ứng xử của con người trong bối cảnh hiện nay, chắc chắn sẽ cần phải có sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, nhằm củng cố, xây dựng và phát triển môi trường văn hóa lành mạnh; trong đó, cần bắt đầu từ chính môi trường gia đình - nơi đầu tiên đặt nền móng cho cách ứng xử có văn hóa của mỗi cá nhân.
Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng gia đình hạnh phúc chính là tạo nền tảng để xây dựng xã hội hạnh phúc, là vấn đề hết sức hệ trọng của dân tộc ta”(3). Môi trường văn hóa gia đình lành mạnh là “vaccine” quan trọng nhất giúp tăng khả năng “miễn dịch” trước những tiêu cực và hệ lụy từ sự “xâm lăng văn hóa” - mặt trái của toàn cầu hóa và thời đại số.
Việc đón nhận cái mới từ bên ngoài một cách thiếu chọn lọc, không chỉ làm suy thoái lối sống và đạo đức xã hội, mà còn tạo ra một nền văn hóa lai căng, thiếu bản sắc. Vì vậy, thời gian tới, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp đã được chỉ ra trong các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về lĩnh vực văn hóa, con người, trong đó tập trung vào một số giải pháp căn bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, quán triệt đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò, tầm quan trọng của văn hóa ứng xử, vì chỉ có thay đổi nhận thức, con người mới có thể thay đổi hành vi để ứng xử đạt chuẩn mực văn hóa.
Thứ hai, đẩy mạnh xây dựng môi trường và đời sống văn hóa lành mạnh, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; phát huy những giá trị tích cực về thuần phong mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội. Tăng cường giáo dục thẩm mỹ, gắn với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng xã hội cho nhân dân, đặc biệt là giới trẻ. Có cơ chế phối hợp chặt chẽ, hài hòa giữa gia đình, nhà trường và xã hội; đề cao vai trò, trách nhiệm của gia đình trong việc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên, cùng với nhà trường giáo dục, hình thành nhân cách, đạo đức và kỹ năng ứng xử văn minh. Tiếp tục phát huy hiệu quả việc thực hiện bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình; xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hoà thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”; đồng thời cần tiếp tục nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc và vận dụng những truyền thống văn hóa ứng xử tốt đẹp trong gia đình của người Việt Nam xưa, như ông cha ta trước đây từng nói “Quốc có quốc pháp, gia có gia quy”.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Tập trung nghiên cứu, xây dựng và triển khai có hiệu quả các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không gian mạng, trong giới văn nghệ sĩ,… Thực hiện nghiêm các quy định về nêu gương đối với cán bộ, đảng viên, nhất là với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ những người làm công tác giáo dục, văn nghệ sĩ và cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, lãnh đạo doanh nghiệp và những người có tầm ảnh hưởng quan trọng trong cộng đồng và xã hội, góp phần lan tỏa những hành vi, lối sống, cách ứng xử tốt đẹp theo phương châm “nhân cái đẹp, dẹp cái xấu”, để định hướng hành vi, thái độ đúng đắn cho công chúng, nhân dân.
Thứ tư, coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng và trong bộ máy Nhà nước. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 các khoá XI, XII và đặc biệt là các kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII của Đảng mới đây về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, trong đó, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên.
Thứ năm, xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật với những điều khoản, quy định chặt chẽ về cách ứng xử của mỗi cá nhân; có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức và quy tắc xã hội, tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để vừa có tính giáo dục, vừa có tính răn đe, giúp mỗi cá nhân biết tự điều chỉnh hành vi, suy nghĩ của mình. Mặt khác, cần phát huy hơn nữa vai trò của báo chí, các phương tiện truyền thông hiện đại, góp phần tuyên truyền, cổ động các cuộc vận động xây dựng văn hóa ứng xử; phát hiện, cổ vũ cách làm hay, những gương người tốt, việc tốt điển hình; đồng thời phản ánh những thói hư, tật xấu, phê phán những biểu hiện lệch chuẩn về cách ứng xử của con người, góp phần xây dựng môi trường văn hóa thực sự lành mạnh, văn minh./.
TS. Lê Trọng Nin
Vụ Văn hóa - Văn nghệ, Ban Tuyên giáo Trung ương
___________________
(1) “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Bài phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (24/11/2021).
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H, 2021, t.I, tr.104.
(3) Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 24/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới.