Thứ Năm, 9/5/2024
Nghiên cứu
Thứ Hai, 6/2/2023 10:4'(GMT+7)

Về vấn đề bình đẳng giới trong công tác cán bộ

Hội nghị chuyên đề về giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cán bộ nữ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Hội nghị chuyên đề về giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cán bộ nữ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng xác định chủ trương về bình đẳng giới và đảm bảo quyền của phụ nữ là một trong những chính sách xã hội cơ bản của quốc gia trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị khóa X “về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” xác định “Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý có tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ, nguồn cán bộ nữ hẫng hụt, ở một số lĩnh vực, tỷ lệ cán bộ nữ giảm sút”; Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư khóa XII “về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới” chỉ rõ  “Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp về công tác cán bộ nữ; hoàn thiện các quy định về công tác cán bộ bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ; chú trọng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, tôn vinh nhằm khơi dậy tiềm năng, trí tuệ, sức sáng tạo, tinh thần khởi nghiệp, khát vọng của đội ngũ nữ lãnh đạo quản lý, nữ tri thức, nữ cán bộ khoa học, nữ doanh nhân nhằm xây dựng người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới”; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” xác định mục tiêu, nhệm vụ giải quyết những vấn đề then chốt, cấp bách nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị khóa XII “về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng” nhấn mạnh về cơ cấu cán bộ nữ: “Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ... Cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu phải chủ động và có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, đánh giá để đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số vào các chức danh có cơ cấu tham gia cấp ủy khóa mới; đồng thời, có giải pháp hiệu quả chuẩn bị nguồn cán bộ cả trước mắt và lâu dài”;

Tiếp nối, phát triển quan điểm của Đảng về phụ nữ và công tác phụ nữ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định sự quan tâm, trách nhiệm cũng như những nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước đặt ra để giải quyết các vấn đề về công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kĩ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liện quan đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em”, trong đó, vị trí, vai trò của phụ nữ ngày càng được nâng cao, từng bước đóng góp nhiều hơn vào mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội và phát triển chung của đất nước.

Cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới  trong nhiều bộ luật như: Luật bình đẳng giới, Luật hôn nhân gia đình, Luật bảo vệ bà mẹ và trẻ em, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật Cán bộ, công chức năm 2008,  Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức sửa đổi năm 2019 và một số bộ luật khác. Đặc biệt, thực hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 515/QĐ-TTg, ngày 31/3/2016 với mục tiêu tổng quát: “Giảm sự chênh lệch về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực giữa nữ cán bộ, công chức, viên chức so với nam cán bộ, công chức, viên chức trong quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng tại cơ quan, tổ chức của nhà nước; đồng thời góp phần xây dựng và phát triển vững chắc đội ngũ nữ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 28/NQ-CP, ngày 03/03/2021của Chính phủ về Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 với mục tiêu: “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước”.

TỔ CHỨC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ

Công tác cán bộ là tổng thể các biện pháp của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể trong xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, điều động cán bộ; bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ... nhằm phát huy năng lực đội ngũ cán bộ theo hướng bố trí sử dụng hợp lý, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu hoạt động của hệ thống chính trị trong tình hình mới.

Tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ là tổng thể các biện pháp của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể trong xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, điều động cán bộ; bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ... nhằm phát huy năng lực đội ngũ cán bộ theo hướng bố trí sử dụng hợp lý, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu hoạt động của hệ thống chính trị trong tình hình mới; đồng thời đảm bảo cán bộ nam và nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình trong hệ thống chính trị và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Cụ thể:

Tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ góp phần hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới

Pháp luật về bình đẳng giới bao gồm các quy định pháp luật trên nhiều lĩnh vực nhằm mục tiêu thực hiện bình đẳng giới vì vậy thực hiện bình đẳng giới trong công tác cán bộ là một bộ phận của mục tiêu thực hiện bình đẳng giới. Việc thực hiện các hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ, làm các quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành những quy định mà các cá nhân, cơ quan, tổ chức bắt buộc phải tuân theo. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức sử dụng đúng đắn các quyền của mình, làm những gì mà pháp luật cho phép làm. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ, chủ động làm những gì mà pháp luật quy định phải làm. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức không làm những điều mà pháp luật cấm. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền căn cứ vào pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, chấm dứt hoặc thay đổi việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ cụ thể của cá nhân, tổ chức. Các hoạt động trên nhằm mục đích hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới.

Như vậy, tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới và là nền tảng, cơ sở để tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ. Để hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trước hết phải tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ, là nhân tố chính tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới nói riêng và cả hệ thống pháp luật nói chung. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới có đi vào thực tiễn cuộc sống hay không xuất phát từ công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ.

Tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ sẽ thu hẹp khoảng cách giới và nâng cao vị thế, vai trò của nữ giới trong công tác cán bộ

Công tác cán bộ bao gồm các hoạt động như: tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cần đảm bảo công khai, minh bạch, quy định chuẩn đầu vào tuyển dụng phù hợp, rõ ràng với vị trí tuyển dụng, đảm bảo bình đẳng giới không có sự phân biệt giới ở các vị trí. Khi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nữ có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng; được điều chỉnh, bổ sung kịp thời phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo các cơ quan, đơn vị vừa hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao vừa thực hiện tốt các mục tiêu chiến lược vì sự tiến bộ của phụ nữ theo kế hoạch đề ra góp phần thu hẹp khoảng cách giới và nâng cao vị thế, vai trò của nữ giới trong công tác cán bộ.

Tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động bình đẳng giới sớm đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu trong các kế hoạch, chương trình đã đề ra

Các hoạt động hướng đến mục tiêu cân bằng  giới trong công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý, bổ nhiệm, đề bạt, đánh giá,…ngày càng được nâng cao cả về hình thức và nội dung, không còn sự rời rạc, riêng lẻ và được định hướng, tổ chức thực hiện theo một khuôn khổ nhất định, thống nhất cao từ cơ quan trung ương đến cơ quan địa phương, từ cơ quan, tổ chức nhà nước đến cơ quan, tổ chức ngoài nhà nước và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt nhân sự, nội dung, phương thức thực hiện.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ Ở VIỆT NAM

Bình đẳng giới chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: cam kết chính trị, thể chế phù hợp của chính phủ; phong trào phụ nữ và phong trào nhân quyền, truyền thông; văn hóa và tôn giáo và sự thúc đẩy bình đẳng giới trong công tác cán bộ ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Đây là điều kiện tiên quyết cho sự tiến bộ của phụ nữ, giúp họ có nhiều cơ hội tham gia lãnh đạo và quản lý nhà nước. Xu hướng phát triển của xã hội ở các nước và khu vực trên toàn thế giới ngày càng thúc đẩy bình đẳng giới trong công tác cán bộ, số lượng nữ giới làm công tác lãnh đạo quản lý ngày càng tăng. Trong xã hội hiện đại ngày nay, các quyền khác ảnh hưởng đến phụ nữ bao gồm quyền tự do di chuyển, quyền kết hôn, quyền sở hữu tài sản, quyền tự do lựa chọn việc làm, giáo dục và tham gia vào quá trình chính trị càng được quan tâm, góp phần làm cho tỷ lệ tham gia lãnh đạo, quản lý nhà nước của phụ nữ trên thế giới được mở rộng về quy mô và số lượng.

Việt Nam đang đứng thứ 87 trên tổng số 153 quốc gia về thu hẹp khoảng cách giới, hiện thu nhập của nữ giới ít hơn trung bình 3 triệu đồng so với nam giới mỗi năm, phụ nữ dành nhiều hơn 14 giờ mỗi tuần so với nam giới để làm việc nhà, chăm sóc con cái và người cao tuổi. Tỷ lệ nữ doanh nhân tại Việt Nam chiếm 31,3%, trong khi nam giới nắm quyền ở vị trí cấp cao giữ một tỷ lệ vượt trội, chiếm 77,6%. Những năm qua, phụ nữ Việt Nam đã khẳng định được vai trò và vị thế của mình trong xã hội. Không chỉ là những người phụ nữ nội trợ của gia đình mà rất nhiều phụ nữ đã nỗ lực vươn lên nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy của chính quyền cũng như làm chủ doanh nghiệp, tạo nên đội ngũ nữ doanh nhân năng động, sáng tạo, vượt khó, tạo việc làm cho hàng triệu lao động. Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ tham gia cấp ủy, cơ quan hành chính Nhà nước các cấp đều tăng cả về số lượng và chất lượng; trong các ngành công nghiệp phụ nữ đã có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất, chất lượng hiệu quả công việc; trong ngành giáo dục các nữ trí thức, nhà khoa học không ngừng say mê nghiên cứu, ứng dụng khoa học, tham gia chủ trì nhiều đề tài là cơ sở hoạch định chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước.

Có thể khẳng định, trong một thế giới hội nhập và toàn cầu hóa, vị thế, năng lực của một quốc gia nói chung hay một cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nói riêng không chỉ dựa vào những chỉ số, yếu tố kinh tế thuần túy mà thay vào đó là các yếu tố như: môi trường, thực hiện trách nhiệm xã hội trong đó bình đẳng giới đang ngày càng được nhìn nhận, đánh giá có vai trò quan trọng tới sự phát triển chung của từng quốc gia. Vì vậy, phát huy vai trò của phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới có ý nghĩa vô cùng quan trọng tới sự phát triển kinh tế-xã hội. Bình đẳng giới là một yếu tố không thể thiếu ở Việt Nam, khi Việt Nam muốn đạt tham vọng trở thành nước phát triển vào năm 2045. Mặc dù tổng sản phẩm trong nước (GDP) hay hạ tầng cơ sở có phát triển nhưng những yếu tố xã hội, trong đó bình đẳng giới chưa phát triển thì khó có thể nâng cao vị thế của Việt Nam để thực hiện thành công mục tiêu mà Đảng, Nhà nước ta muốn thúc đẩy trong các văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng các nhiệm kỳ là “Công bằng - Dân chủ - Văn minh”.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn có nhiều cơ hội và thách thức đối với việc thực hiện bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ, trẻ em gái trong thời gian tới khi mà các vấn đề liên quan đến sự già đi của dân số Việt Nam, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tự động hóa việc làm tác động, ảnh hưởng đến thực thi chính sách cho nữ giới. Bình đẳng giới một trong các yếu tố để xác định một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, là một mục tiêu quan trọng cần hướng đến không chỉ ở mỗi địa phương, cơ quan, tổ chức mà còn là định hướng mục tiêu chung của Việt Nam trên tất các các lĩnh vực phát triển kinh tế-xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi vị trí, vai trò của nữ giới được nâng cao và ngày càng được quan tâm, tạo điều kiện phát huy trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì những vấn đề đặt ra để thúc đẩy bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong công tác cán bộ nói riêng là điều vô cùng cấp thiết; nhằm phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

Trong thời gian tới, để thực hiện bình đẳng giới trong công tác cán bộ ở Việt Nam, cần quan tâm tới một số nội dung như sau:

Thứ nhất, nhận thức đúng về vai trò, vị trí của phụ nữ, công tác phụ nữ và bình đẳng giới trong xã hội, trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội để mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người phụ nữ, để phụ nữ có cơ hội, điều kiện đóng góp cho xã hội, cho đất nước, không để ai bị bỏ lại phía sau. Quán triệt nghiêm tục tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo của Đảng để thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành. Các cơ quan có liên quan phải có trách nhiệm và cùng nhau giải quyết, thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ hiện đại trước hết cần phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ của các tầng lớp phụ nữ.

Thứ hai, xác định lồng ghép vấn đề bình đẳng giới về bảo đảm quyền con người theo quy định của Hiến pháp 2013 vào trong các quy định Luật Phòng chống Bạo lực gia đình (sửa đổi), đây là một trong những biện pháp để bảo đảm bình đẳng giới thực chất. Thông qua việc đánh giá quá trình thi hành các quy định về biện pháp bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình, xử lý người gây bạo lực gia đình, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong phòng chống bạo lực gia đình đối với nam, nữ theo các tiêu chí: cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và hưởng thụ các quyền, lợi ích của mỗi giới khi thực hiện chính sách.

Thứ ba, xác định có hay không có vấn đề giới, bình đẳng giới và phân tích các nguyên nhân, bất cập của vấn đề này để có biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện vấn đề giới, bình đẳng giới trên các lĩnh vực nói chung và trong công tác cán bộ nói riêng. Đánh giá tác động kinh tế, xã hội, giới, tác động của thủ tục hành chính và tác động đối với hệ thống pháp luật đến việc thực thi chính sách về giới. Dự báo tác động của các chính sách, quy định được ban hành đối với nữ và nam; tổng hợp, so sánh kết quả đánh giá tác động của các chính sách, quy định đã và đang thực hiện để đề xuất giải pháp tối ưu giải quyết vấn đề về giới, nhằm bảo đảm tính khả thi của các quy định sau khi được ban hành; bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới, không phân biệt đối xử.

Thứ tư, hoàn thiện thể chế về bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong công tác cán bộ hướng tăng cường các biện pháp bảo vệ các quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; theo quy định của Luật Bình đẳng giới, đảm bảo sự phù hợp của pháp luật Việt Nam và với Công ước xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) cũng như các khuyến nghị chung của Ủy ban CEDAW liên quan đến việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ và nam giới trong xã hội và gia đình. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế nhà nước, xã hội cũng như vai trò của gia đình về lĩnh vực này, góp phần gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình, ngày càng hiệu quả, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ, tạo điều kiện cho nữ cán bộ, công chức được tham gia vào nhiều vị trí lãnh đạo, quản lý cũng như tạo điều kiện đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò của phụ nữ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.

Thứ năm, bảo đảm nguồn lực đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, cụ thể, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc tổ chức thực hiện bình đẳng giới và bình đẳng giới trong công tác cán bộ.

Thứ sáu, nâng cao chất lượng tuyên truyền, truyền thông, giáo dục về chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới, về bình đẳng giới trong công tác cán bộ, nhằm tạo sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động; nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và những đóng góp to lớn của nữ cán bộ công chức, viên chức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Hoàng Thị Thu Trang

Học viện Hành chính quốc gia

 

 

 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất