(TG) -Xã hội hóa các hoạt động văn học, nghệ thuật (VHNT) là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tiến trình đổi mới, hội nhập của đất nước. Từ chủ trương đến thực tiễn, sau hơn 20 năm từ khi có Nghị quyết 90-CP của Chính phủ (năm 1997) đã góp phần mở ra thời kỳ phát triển mới của VHNT. Song, để tạo ra sức bật mới, nâng tầm văn hóa trong chặng đường phía trước cũng cần tháo gỡ, khơi thông những “điểm nghẽn” nhận thức về xã hội hóa VHNT còn vướng víu hiện nay.
“GẶT HÁI” TỪ XÃ HỘI HÓA
Chủ trương xã hội hóa gắn
liền với quá trình đổi mới
toàn diện đất nước, bao
trùm nhiều lĩnh vực của đời
sống văn hóa - xã hội, trong đó
có VHNT. Chủ trương xuất phát
từ những đòi hỏi khách quan
của cuộc sống, nhằm kích thích
tinh thần tự chủ, tiềm năng sáng
tạo, huy động các nguồn lực của
toàn xã hội vào việc tạo ra các giá
trị văn hóa, đáp ứng cao hơn nữa
nhu cầu tinh thần của nhân dân
và yêu cầu phát triển đất nước.
So với các giai đoạn trước
đây, có thể xem hơn hai thập
niên vừa qua là thời kỳ phát
triển mới của văn hóa - nghệ
thuật với rất nhiều mô hình,
phương thức hoạt động đa dạng,
chất lượng nghệ thuật không
ngừng được nâng cao, góp phần
quan trọng vào việc khôi phục,
bảo tồn, phát triển nhiều giá trị
VHNT truyền thống kết hợp với
việc khai thác, tiếp thu, sáng
tạo VHNT hiện đại, mở ra cơ hội
mới trong giao lưu, hội nhập
quốc tế.
Có thể nói chưa bao giờ ở
nước ta các hoạt động VHNT
ngoài công lập lại có sự phát
triển mạnh mẽ như những năm
qua, nhiều mô hình, loại hình
chưa từng tồn tại trong lịch sử
nay liên tục được ra đời. Nổi lên
là góp mặt của hàng trăm hãng
phim và cơ sở sản xuất phim,
hàng chục bảo tàng, thư viện,
phòng đọc... tư nhân. Nhờ thu
hút được sự đầu tư mạnh mẽ
của các nguồn lực, nên hoạt
động trong lĩnh vực biểu diễn
trở nên sôi động, đa dạng, thu
hút được sự quan tâm của xã hội
hơn; các văn nghệ sĩ được tham
gia ngày càng sâu vào quá trình
sáng tạo, phổ biến, quảng bá các
công trình, tác phẩm VHNT...
“Xã hội hóa hoạt động văn hóa hướng vào thu hút toàn xã
hội, các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động sáng tạo,
cung cấp và phổ biến văn hóa, tạo điều kiện cho các hoạt động
văn hóa phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, nâng cao dần mức
hưởng thụ văn hóa của nhân dân, trên cở sở tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực
văn hóa…” (Nghị quyết 90-CP của Chính phủ) |
Nhờ xã hội hóa mà gánh
nặng tài chính của Nhà nước
từng bước được san sẻ, tiềm lực,
nguồn lực xã hội được phát huy,
đáp ứng có hiệu quả cho quá
trình phát triển. Xã hội hóa góp
phần xây dựng cộng đồng trách
nhiệm của các tầng lớp nhân
dân theo hướng đa dạng hóa
chủ thể hoạt động tổ chức và
quản lý văn hóa, văn nghệ. Đồng
thời là động lực trực tiếp thúc
đẩy sự tham gia của đông đảo
người hoạt động VHNT quần
chúng, đặc biệt ở khâu sáng
tạo, chủ động tổ chức các hoạt
động để nâng cao mức hưởng
thụ VHNT do chính mình làm
ra. Các di sản VHNT được thế
giới công nhận những năm
qua (Quan họ, Nhã nhạc cung
đình, Bài chòi, Đờn ca tài tử, Hát
xoan, Ví dặm, Cồng chiêng Tây
Nguyên…) là kết quả không chỉ
do sự quan tâm của Nhà nước,
mà trước hết là ở quần chúng
đã tự nguyện, tâm huyết tham
gia bảo vệ, lưu giữ và phát triển
các di sản do chính mình sáng
tạo nên.
Kết quả xã hội hóa VHNT
không chỉ mở ra những phương
thức mới trong hoạt động, mà từ
đó, nó đã tác động đến quản lý
nhà nước, đòi hỏi sự nâng cao
trình độ, năng lực quản lý và tìm
tòi phương thức quản lý mới,
đáp ứng đòi hỏi của quá trình xã
hội hóa. Một loạt cơ chế, chính
sách mới được ban hành, trong
đó có sự ra đời và bổ sung của
các bộ luật, pháp lệnh, quy định,
quy chế về văn hóa, văn nghệ,
bước đầu đáp ứng yêu cầu quản
lý nhà nước trong điều kiện
mới, tạo sự thông thoáng, cởi
mở hơn.
Xã hội hóa đã từng bước hình
thành và phát triển thị trường
VHNT. Cùng với sự đa dạng hóa
chủ thể quản lý và các hình thức
xuất bản, việc liên kết giữa các
nhà xuất bản với các công ty
sách đã từng bước hình thành
thị trường xuất bản sôi động,
linh hoạt, phong phú; không chỉ
kích thích nguồn “cung” từ lợi
nhuận kinh doanh, mà còn tạo
ra cú hích cho sự tìm tòi, sáng
tạo trong quá trình khai thác,
quảng bá, đưa ra thị trường
những tác phẩm có chất lượng,
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của công chúng.
KHƠI THÔNG
“ĐIỂM NGHẼN”
TRONG NHẬN THỨC
Bên cạnh những kết quả
quan trọng đạt được sau một
chặng đường hơn hai thập niên
thực hiện chủ trương xã hội hóa
hoạt động VHNT, cho đến nay lộ
trình này vẫn bộc lộ nhiều lúng
túng, bất cập, thiếu thống nhất.
Nói như nhà văn Hữu Thỉnh,
Chủ tịch Liên hiệp các hội văn
học, nghệ thuật Việt Nam thì xã
hội hóa được nhiều nhưng mất
cũng không ít, thậm chí được và
mất là 50 - 50.
Tuy chưa có một tổng kết
chính thức, nhưng trên cơ sở
nhận định của nhiều nhà quản lý, chuyên gia trong lĩnh vực
này, thì những hạn chế, vướng
mắc bộc lộ rất rõ ở một số khía
cạnh như: cách làm, phương
thức hoạt động còn mang tính
tùy tiện; hệ thống thiết chế quản
lý thiếu đồng bộ, chưa cụ thể và
chưa phù hợp; tiêu chí đánh giá,
thẩm định nghệ thuật chưa có,
chưa đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn; vai trò của Nhà nước và
tư nhân chưa được xác định rõ
ràng; thiếu sự định hướng của
Nhà nước…
Hệ quả của những bất cập,
hạn chế trên là quá trình xã
hội hóa chưa xác định được mô
hình hợp lý để nhân rộng, phát
triển. Không ít trường hợp bị
đồng nhất với tư nhân hóa đơn
thuần. Nhiều đơn vị xã hội hoạt
động được một thời gian rồi
rơi vào bế tắc. Các hiện tượng
tiêu cực như thương mại hóa,
nghiệp dư hóa… xuất hiện. Các
giá trị nghệ thuật truyền thống
như Tuồng, Chèo, Cải lương và
nhạc cổ truyền không có cơ hội
để được đầu tư, dẫn đến nguy
cơ mai một. Tình trạng thiếu
vắng các tác phẩm có giá trị tư
tưởng và nghệ thuật cao vẫn
đang hiện hữu…
Đáng chú ý là, kể từ khi “bắt
đầu” cho đến nay vẫn còn không
ít quan điểm thể hiện nhận thức
không đúng với chủ trương xã
hội hóa của Đảng và Nhà nước.
Đây có thể coi là những “điểm
nghẽn” mà nếu không thông,
sẽ không thể nào phát huy hết
được tiềm năng từ xã hội hóa.
PGS. TS. Phan Trọng Thưởng,
Phó Chủ tịch Thường trực Hội
đồng Lý luận, phê bình văn học,
nghệ thuật Trung ương nhận
định: “Cũng như bất kỳ chủ
trương, chính sách nào, khi mới
ban hành cũng gây sự bỡ ngỡ
và gặp không ít khó khăn trong
quá trình đi vào cuộc sống, nhất
là trong hoàn cảnh đất nước vừa
bước ra khỏi thời kỳ bao cấp,
tâm trạng còn phân vân, nhận
thức về xã hội hóa còn chưa
thông suốt”.
Ngoài ra, nhận thức phiến
diện, thiên lệch về xã hội hóa
còn cho rằng mục đích xã hội
hóa chỉ là để giải bài toán về
ngân sách, bằng các hình thức
góp vốn, huy động nguồn lực
xã hội, kêu gọi đầu tư, kêu gọi
tài trợ… Từ đó, không quan tâm
hoặc xem nhẹ việc tạo điều
kiện cho các thành phần tham
gia quản lý, sáng tạo, quảng bá,
hưởng thụ, thẩm định, lưu giữ…
các tác phẩm VHNT, các giá trị
văn hóa…
Cho đến nay, trong một bộ
phận quản lý các cấp cũng như
văn nghệ sỹ và công chúng vẫn
chưa hiểu đầy đủ và chính xác
về khái niệm xã hội hóa hoạt
động VHNT. Một là, nhầm lẫn
giữa xã hội hóa với tư nhân, bởi
trên thực tế nhiều hoạt động
VHNT, rõ nhất là trong các hoạt
động tổ chức biểu diễn nghệ
thuật và quảng bá tác phẩm,
nhiều đơn vị tư nhân làm tốt
hơn đơn vị Nhà nước. Từ đó nảy
sinh một luồng quan điểm là các
hoạt động VHNT cứ để cho tư
nhân làm. Hai là, đồng nhất xã
hội hóa với cổ phần hóa, trong
đó Nhà nước chiếm số phần
trăm vốn chi phối. Theo đó, xã
hội hóa hoạt động VHNT đơn
giản là tư nhân góp vốn chia sẻ
trách nhiệm, lợi ích, rủi ro… với
Nhà nước.
Có nhận thức lại tuyệt đối
hóa khía cạnh “hàng hóa” của
sản phẩm VHNT. Nếu xem sản
phẩm VHNT sản xuất để bán,
kiếm lợi nhuận thuần túy, thì
sẽ dẫn đến quan điểm thả nổi
tác phẩm VHNT cho thị trường
điều chỉnh. Trong thực tiễn,
tình trạng này đã xảy ra và gây
những tác hại không nhỏ cho
sự phát triển VHNT. Trong cơ
chế thị trường, VHNT tất phải
trở thành một loại hàng hóa đặc
biệt, nhưng sẽ thật sai lầm khi
quy mọi sản phẩm VHNT vào
quá trình thương mại hóa.
Xã hội hóa không nên hiểu
chỉ là huy động sự đóng góp về
kinh phí. Phải nhận thức đúng
và rõ trách nhiệm xây dựng
một nền thị trường VHNT lành
mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc
để góp phần quan trọng tạo động
lực phát triển kinh tế đất nước.
Muốn vậy, xã hội hóa thị trường
VHNT phải không ngừng đánh
thức, phát huy mọi tiềm lực xã
hội, biến các hoạt động VHNT
trở thành của toàn xã hội, được
xã hội quan tâm và nuôi dưỡng.
Tuy nhiên, tuyệt đối không coi
xã hội hóa hoạt động VHNT chỉ
đơn thuần là huy động, khai
thác tiền của, vật chất, như một
số nơi đã rơi vào tình trạng, thói
quen và nếp nghĩ hạn hẹp này.
Xã hội hóa một quá trình lâu
dài, là đòi hỏi tự thân trong xu
thế tất yếu của quá trình phát
triển. Vì thế, không nên nhận
thức và coi xã hội hóa như một
phong trào, một đợt vận động,
mà phải tạo cho được những cơ
chế chính sách mang tính quy
phạm pháp luật, tính khoa học
và sự phù hợp với thực tiễn để
thực hiện xã hội hóa.
Xã hội hóa cũng không được
hiểu là nhà nước “khoán trắng”
việc cho xã hội. Nhà nước vẫn
phải giữ vai trò chủ đạo định
hướng cho các hoạt động văn
nghệ, tài trợ, “đặt hàng” có trọng
điểm, đúng lúc, đúng chỗ, góp
phần tạo sự cân bằng và thúc
đẩy quá trình xã hội hóa hoạt
động VHNT phát triển nhanh
hơn, mạnh hơn, hiệu quả hơn.
Nhận thức đúng về xã hội
hóa các hoạt động VHNT không
chỉ là “căn cốt” để có phương
pháp đúng trong quá trình triển
khai thực hiện, mà còn là giải
pháp “gốc” để khắc phục những
hạn chế, bất cập; đào thải tư duy
bảo thủ, áp đặt, quy chụp; cải
biến thói quen cổ hủ, lạc hậu.
Tất nhiên, nhận thức phải là
một quá trình liên tục, trên cơ sở
quy luật khách quan để bổ sung,
hoàn thiện trong mỗi giai đoạn,
bởi, có những giải pháp ngày
hôm qua là phù hợp, nhưng
hôm nay có thể đã lỗi thời./.
Hoàng Minh Thế
____________________________
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 2/2019