Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội vừa ra Quyết định số 06/QĐ-VKS
(P3) kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2019/HS-ST ngày
30/1/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử bị cáo Phan Văn
Anh Vũ và bốn đồng phạm về các tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi
thi hành công vụ; thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Trong quyết định kháng nghị, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội
nhận định bản án hình sự sơ thẩm số 48/2019/HS-ST ngày 30/1/2019 của Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội xác định thiệt hại và quyết định áp dụng
biện pháp tư pháp trong vụ án là không đúng bản chất và trái quy định
của pháp luật.
Cụ thể, đối với việc xác định thiệt hại của Nhà nước tại bảy dự án bất
động sản, kết quả điều tra xác định: Phan Văn Anh Vũ (sinh năm 1975, Chủ
tịch Hội đồng Quản trị Công ty Xây dựng Bắc Nam 79, nguyên Chủ tịch Hội
đồng Quản trị Công ty Nova Bắc Nam 79; cựu Thượng tá, Phó Trưởng Phòng
Tổng cục V, Bộ Công an) cùng đồng phạm đã lợi dụng chức vụ quyền hạn
trong khi thi hành công vụ để được nhận bảy dự án nhà, đất công sản
không phải qua đấu giá và được hưởng các ưu đãi khác nhằm hưởng lợi bất
chính, như vậy việc giao các dự án này là trái quy định của pháp luật,
gây thiệt hại cho Nhà nước.
Tính đến thời điểm khởi tố, tại các dự án trên, Vũ là người trực tiếp
quản lý, sử dụng và được hưởng lợi. Trong thời gian này, Nhà nước đã mất
đi quyền quản lý, khai thác sử dụng các tài sản công.
Hành vi phạm tội của Vũ cùng đồng phạm không phải là hành vi chiếm đoạt
mà là hành vi gây thiệt hại cho Nhà nước vì mục đích vụ lợi và được kéo
dài từ thời điểm được giao tài sản đến thời điểm bị khởi tố. Do đó, theo
Viện Kiểm sát, thiệt hại trong trường hợp này cần phải được tính tại
thời điểm khởi tố là hơn 1.159 tỷ đồng mới phù hợp với thực tế.
Việc bản án sơ thẩm chỉ tính thiệt hại ngay tại thời điểm giao đất với
số tiền hơn 135 tỷ đồng là chưa đánh giá đúng bản chất của vụ án cũng
như hậu quả mà các bị cáo đã gây ra cho Nhà nước và xã hội.
Mặt khác, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng việc Tòa án
tuyên thu hồi bảy dự án nhà, đất đã kê biên nêu trên để nộp vào ngân
sách Nhà nước là không đúng quy định, bởi các dự án này do Ủy ban Nhân
dân thành phố Đà Nẵng và Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giao đất,
cho thuê đất không qua đấu giá quyền sử dụng đất là trái các quy định
tại các Điều 55, 56 và 118 - Luật Đất đai năm 2013 nên phải áp dụng pháp
luật chuyên ngành là Luật Đất đai năm 2013 làm căn cứ để giải quyết.
Bị cáo Phan Văn Anh Vũ cùng các bị cáo nghe Hội đồng xét xử tuyên án. (Ảnh: TTXVN)
Viện Kiểm sát đã viện dẫn các quy định tại Điều 64, Điều 66 - Luật Đất
đai năm 2013, thẩm quyền thu hồi đất thuộc Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh. Như
vậy, việc xử lý bảy dự án nhà đất công sản trên cần phải tuyên theo
hướng: Hủy các quyết định giao đất trái pháp luật của Ủy ban Nhân dân
thành phố Đà Nẵng và Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; giao cho Ủy
ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng và Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
thu hồi, quản lý và xử lý theo quy định của pháp luật 6 cơ sở nhà đất,
gồm: (1) Nhà công sản tại số 319 Lê Duẩn, phường Tân Chính, quận Thanh
Khê, thành phố Đà Nẵng; (2) Nhà đất tại số 16 Bạch Đằng, phường Thạch
Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; (3) Khu đất đường Ngô Quyền,
phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng; (4) Khu đất tại
đường ven biển Sơn Trà-Điện Ngọc, phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng; (5) Nhà đất tại số 8 Nguyễn Trung Trực, Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh; (6) Nhà, đất tại số 15 Thi Sách, Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh. Đối với nhà đất tại số 129 Pasteur, Phường 6, Quận 3, Thành
phố Hồ Chí Minh, giao cho Bộ Công an phối hợp với Ủy ban Nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề xuất biện pháp thu hồi
đảm bảo không thất thoát tài sản Nhà nước đồng thời bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp cho những người có liên quan.
Trong bản án sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định tịch thu sung quỹ
Nhà nước số tiền đang tạm giữ của bị cáo Vũ; tiền trong các tài khoản
của cá nhân bị cáo Vũ, Công ty Xây dựng Bắc Nam 79, Công ty Chấn Phong,
tiền của Tổng Công ty Thủy sản Việt Nam còn nợ Công ty Xây dựng Bắc Nam
79.
Quan điểm của Viện Kiểm sát cho rằng việc Tòa án tuyên tịch thu các
khoản tiền nêu trên để nộp vào ngân sách Nhà nước là không có cơ sở, do
các khoản tiền này được xác định là tài sản của cá nhân Phan Văn Anh Vũ
và của các công ty có liên quan đến Vũ.
Quá trình điều tra không chứng minh được đây là tiền trực tiếp liên quan
đến tội phạm do Vũ phạm tội mà có hoặc là tiền thu lợi bất chính, trong
đó có khoản tiền lương hơn 1,3 tỷ đồng tạm giữ của Vũ được coi là thu
nhập hợp pháp. Do vậy không có căn cứ tịch thu mà chỉ có thể tiếp tục
tạm giữ số tiền đã thu giữ và phong tỏa để đảm bảo thi hành án.
Việc Tòa án tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước toàn bộ các khoản tiền trên
là không có căn cứ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo
Phan Văn Anh Vũ và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trên cơ sở những nhận định này, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội
đã quyết định kháng nghị phần xác định thiệt hại của vụ án và quyết định
về biện pháp tư pháp của Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2019/HS-ST ngày
30/1/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Đồng thời, đề nghị Tòa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng sửa Bản
án hình sự sơ thẩm về việc xác định thiệt hại, thu hồi tài sản và tịch
thu tài sản sung quỹ Nhà nước như đã phân tích trên theo đúng quy định
của pháp luật.
Hiện, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã nhận được đơn kháng cáo của
hai bị cáo trong vụ án này, gồm Bùi Văn Thành (sinh năm 1959, cựu Trung
tướng, Thứ trưởng Bộ Công an) và Trần Việt Tân (sinh năm 1955, cựu
Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Công an). Trong đó, bị cáo Bùi Văn Thành
kháng cáo, đề nghị được xem xét các tình tiết giảm nhẹ và xin được hưởng
án treo.
Bị cáo Trần Việt Tân không chấp nhận những phán quyết của Tòa cấp sơ
thẩm về nội dung cũng như hình phạt đối với bị cáo, đồng thời đề nghị
Tòa cấp phúc thẩm xem xét giải quyết, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho bị cáo theo quy định của pháp luật./.
(TTXVN)