Một đặc điểm nổi bật của tiếp biến giao lưu văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hôm nay là diễn ra hết sức nhanh chóng, ào ạt, nhiều hệ lụy, kể cả những nền văn hóa không "đồng văn đồng chủng" cũng dễ dàng ảnh hưởng lẫn nhau. Dĩ nhiên, tiếp thu nhanh nhất và cũng chịu hậu quả nhiều nhất, sớm nhất là giới trẻ. Tiếp biến và ảnh hưởng văn hóa như những cơn gió lạ đến từ nhiều phương trời khác nhau, có gió lành và gió độc. Vấn đề ở chỗ phân biệt để hưởng gió lành mà loại trừ gió độc, đề kháng với gió độc.
Trong nghiên cứu văn hóa hiện đại, người ta rất chú ý tới khái niệm tính người, coi mỗi con người là một cá thể văn hóa phát triển trong một môi trường văn hóa nhất định. Hãy cứ hình dung mỗi cá nhân như một cây xanh tươi tốt, sum suê cành lá là nhờ nó luôn cắm rễ rất sâu vào mảnh đất truyền thống để hút từ đó những dinh dưỡng tinh hoa. Đồng thời, cây xanh ấy luôn vươn cao hô hấp, quang hợp ánh sáng, không khí của bầu trời văn hóa đương đại. Nếu cây được trồng ở mảnh đất, dù có rất giàu dưỡng chất truyền thống mà thiếu ánh sáng và khí trời của thời đại thì nó cũng còi cọc, và ngược lại. Nhìn vào mỗi cây xanh kia, cường tráng tươi tốt hay héo úa tàn tạ người ta có thể đoán cây ấy được trồng ở mảnh đất văn hóa nào, quang hợp thứ ánh sáng nào.
Nhìn từ khái niệm tính người trên đây sẽ cho chúng ta một cái nhìn đồng bộ trong việc tạo sức mạnh đề kháng văn hóa, chống “xâm lăng" văn hóa.
Tiếp biến, ảnh hưởng văn hóa như là một thuộc tính của văn hóa, thường diễn ra trong những môi trường có điều kiện tương tự giữa các nước cùng khu vực, nhất là giữa các dân tộc “đồng văn, đồng chủng”. Ví dụ, dưới góc độ văn học, luật thơ Iamb của Nga tiếp thu từ thơ nước Đức. Nguyễn Du mượn cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để viết Truyện Kiều bất hủ. Sếch-xpia mượn cốt truyện từ nước Đan Mạch để viết Hăm-lét nổi tiếng...
Một đặc điểm nổi bật của tiếp biến giao lưu văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hôm nay là diễn ra hết sức nhanh chóng, ào ạt, nhiều hệ lụy, kể cả những nền văn hóa không "đồng văn đồng chủng" cũng dễ dàng ảnh hưởng lẫn nhau. Dĩ nhiên, tiếp thu nhanh nhất và cũng chịu hậu quả nhiều nhất, sớm nhất là giới trẻ. Tiếp biến và ảnh hưởng văn hóa như những cơn gió lạ đến từ nhiều phương trời khác nhau, có gió lành và gió độc. Vấn đề ở chỗ phân biệt để hưởng gió lành mà loại trừ gió độc, đề kháng với gió độc.
Chúng ta đã và đang thấy những mặt tích cực trong giao lưu hội nhập quốc tế hiện hữu trong đời sống hôm nay. Nhưng chúng ta cũng đã thấy những thứ văn hóa xa lạ với văn hóa bản địa, và cả những thứ phản văn hóa không ngừng ồ ạt du nhập vào đời sống văn hóa nước nhà. Trước hết, là sự học đòi về hình thức, điệu bộ, tiếp theo là học cách cư xử, suy nghĩ, thưởng thức của người khác, nền văn hóa khác. Đặc điểm tâm lý của giới trẻ là luôn thích cái mới lạ, dĩ nhiên sức “đề kháng” văn hóa chưa thể như người trưởng thành nên từ "thích" cái mới đến "theo" cái mới, lấy cái mới làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị mà không tính đến những yếu tố khác dễ dẫn đến sống gấp, sống thực dụng, sống vì đồng tiền... Vì mục tiêu hưởng thụ vật chất, phai nhạt lý tưởng và đạo đức, đua đòi lối sống buông thả và bạo lực dẫn đến vô số các vụ việc do tuổi trẻ gây ra không chỉ có hại cho văn hóa mà ảnh hưởng đến an ninh, an toàn xã hội. Nếu chúng ta không có một cơ chế quản lý và giáo dục phù hợp thì tình hình sẽ trở nên nghiêm trọng, chẳng khác nào cây xanh kia chỉ mải mê quang hợp mà để bộ rễ sâu mục, mất gốc cây sẽ đổ cho dù cành lá tốt tươi đến mấy.
Dựa trên những hiểu biết trên đây, chúng tôi xin đưa ra ba nhóm giải pháp để góp phần chống tình trạng “xâm lăng” văn hóa, một tình trạng đáng báo động hiện nay.
Một là, nhóm tăng cường sức “đề kháng” văn hóa (ở cả hai phương diện cá thể và môi trường văn hóa).
Văn hóa Việt Nam là “văn hóa làng xã”. Có thể nói, “thành trì văn hóa” của chúng ta chính là “văn hóa làng”. Nói tới văn hóa làng là phải nói tới các hình tượng đã thành hằng số: Cây đa, bến nước, sân đình… Dĩ nhiên, ngày nay chúng ta phát triển nội dung của các hình tượng ấy chứ không nhất thiết phải khư khư ôm giữ hình thức, nhưng mọi thứ cứ san phẳng hết, đô thị hóa ào ạt để nhà ống cao tầng thay thế cổng làng, mái đình xưa; ka-ra-ô-kê thay lời hát ru... thì rồi mất hết làng. Suốt nghìn năm Bắc thuộc chúng ta không mất làng. Sau này kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cũng vậy, chính văn hóa làng là sức mạnh biến triệu người như một, người hậu phương và tiền tuyến là một thì mới chiến thắng các đế quốc to trong sự kinh ngạc của thế giới. Thế mà làng đang nguy cơ bị lỏng lẻo dần, biến dạng đến cả những ngôi làng cổ xưa nhất. Vậy nên cần phải công khai, thẳng thắn, mạnh mẽ gìn giữ, khôi phục nét đẹp văn hóa làng.
Hai là, nhóm quản lý văn hóa. Trong bối cảnh văn hóa biến đổi chóng mặt hiện nay thì sự can thiệp hành chính là rất quan trọng. Chỉ có thể quản lý bằng pháp luật, bằng các nghị định, các văn bản dưới luật mới có thể ngăn chặn các tình trạng suy đồi, phản cảm, đi ngược lại truyền thống văn hóa Việt. Cần có lực lượng thanh tra văn hóa mẫn cán và đủ mạnh, cần có những hội đồng thẩm định có tâm, có tầm, ngăn chặn việc đưa ra thị trường những sản phẩm thiếu nhân văn, kích động tự do vô độ, khuyến khích sống gấp, thác loạn mà đội mũ trường phái này, bút pháp nọ...
Ba là, học tập kinh nghiệm của nước ngoài, nhất là những nước tương đồng với hoàn cảnh và văn hóa nước ta. Chúng tôi xin lấy ví dụ từ hai nước Nhật Bản và Hàn Quốc. Ông Oriza Hirata - một nhà văn hóa của Nhật Bản trên diễn đàn mang tên Văn hóa lập quốc vào cuối tháng 3-2012 tại Hà Nội đã có những chứng minh sinh động về việc phát triển, phát huy thế mạnh của văn hóa truyền thống. Ông lấy dẫn chứng từ hai thành phố Nhật: Furano và Ashibetsu trong thập niên 90 ở thế kỷ trước từng được đầu tư tới 10 tỷ yên để phát triển du lịch nhưng gặp phải thời kỳ kinh tế đi xuống, các điểm du lịch hoành tráng từ hai thành phố trên trở nên hoang vắng vì không có người đến. Ngược lại, chỉ là vài ruộng hoa lavender của thành phố Furano lại trở thành điểm du lịch hấp dẫn du khách. Trả lời vì sao như vậy, ông Oriza Hirata giải thích: Chính mấy ruộng hoa lavender ấy mới đích là bản sắc của thành phố Furano, khách du lịch chỉ thưởng ngoạn cái gì là đích đáng bản sắc nơi họ đến.
Còn câu chuyện phát triển văn hóa của người Hàn Quốc, ông Bae Sang Soo - GS.TS Trưởng khoa tiếng Việt Đại học Ngoại ngữ Busan, Hàn Quốc cho biết, cách đây khoảng hơn 20 năm, giới trẻ Hàn Quốc cũng bị cuốn theo trào lưu hip hop của phương Tây, cũng đua nhau nhuộm tóc vàng, ăn mặc, đeo trang sức lạ lẫm (như một bộ phận thanh niên Việt Nam hôm nay). Các nhà văn hóa đã tập trung nghiên cứu và vạch ra nguyên nhân: Nội lực văn hóa, nhất là âm nhạc của Hàn Quốc yếu không đủ sức hấp dẫn giới trẻ. Hướng khắc phục được đưa ra: Làm thế nào để âm nhạc vừa không mất đi tính dân tộc, nhưng cũng phải mang tính toàn cầu. Thế là họ gửi nhạc sĩ đi học nước ngoài hoặc thuê chuyên gia phương Tây tư vấn… Không chỉ một lĩnh vực âm nhạc mà tiếp nữa là điện ảnh, thời trang… cũng theo cách ấy và họ đã thành công.
Trong ba nhóm giải pháp trên thì nhóm một mang tính quyết định, nhóm hai là quan trọng và nhóm ba là tham khảo. Rất mong được các nhà quản lý văn hóa lưu tâm!./.
PGS. TS Nguyễn Thanh Tú
(Nguồn: QĐND)