Mới đó, thế mà đã hơn năm mươi năm rồi, kể từ ngày Bác Hồ về thăm Sầm Sơn, Thanh Hóa (tháng 7 năm 1960). Năm ấy Bác đã ở độ tuổi xưa nay hiếm, nhưng Bác vẫn mạnh khỏe, dung quang hồng hào, vui tươi, bước đi nhanh nhẹn. Nhìn lại, ta cảm thấy, thời gian trôi đi nhanh quá, nhưng không gian núi Trường Lệ chạy dài trên một phần phía nam bãi biển Sầm Sơn, vẫn còn đó! rừng cây ngày càng xanh tốt rậm rạp hơn trước, biển dưới chân núi ngày đêm dạt dào sóng vỗ. Hình ảnh Bác Hồ thuở ấy vẫn ẩn hiện đâu đây trong ký ức, tình cảm của người dân Sầm Sơn như thấy Bác về thăm ngày nào.
Mùa thu về những làn mây trắng đang chuyển mùa, trời mát mẻ, gió nhè nhẹ thổi những cành lá phi lao đung đưa chuyển màu vàng. Vào những ngày mười bảy, mười tám, mười chín tháng 7 năm 1960, Bác Hồ đã về thăm và làm việc với cán bộ, nhân dân Sầm Sơn. Nơi Bác chọn nghỉ và làm việc trong ba ngày ấy là ở Đền Cô Tiên, nằm trên núi Trường Lệ. Nơi đây, có không gian thoáng mát nhìn được tứ phía, phía bắc là đô thị Sầm Sơn, phía nam là vùng biển có rặng phi lao ven bãi cát huyện Quảng xương, phía tây là cánh đồng lúa gắn với làng quê thuần nông, phía đông là biển, ngày đêm dân chài ra khơi đánh cá. Sát bờ biển trên triền núi cao là đền cô Tiên đã được xây dựng từ lâu đời, cổ kính và huyền thoại. Từ chân núi phía bắc đến đền Cô Tiên có nhiều quả đồi nằm trên dãy núi Trường Lệ thơ mộng. Cho đến bây giờ cũng chưa có ai trả lời chính xác câu hỏi tại sao Bác Hồ lại chọn đền Cô Tiên để nghỉ ngơi và làm việc khi Người về thăm Sầm Sơn. Vì ở trên núi Trường Lệ còn có đền Độc Cước, khu ở của bộ đội biên phòng, khu ở của cán bộ công nhân viên quản lý lâm nghiệp, liền kề phía bắc núi là thị xã Sầm Sơn, ở đây có nhiều khách sạn với đầy đủ tiện nghi sang trọng ở các dãy phố đô thị Sầm Sơn.
Mãi sau này có nhiều người nghiên cứu về Bác Hồ mới đưa ra nhưng phán đoán và suy lý là trong những năm của thập kỷ 60, cuộc đấu tranh cách mạng chống Mỹ cứu nước của nhân dân Miền Nam bước sang giai đoạn quyết liệt, chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang trên một quy mô lớn. Nhân dân miền Bắc với phong trào mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt. Đồng thời với những phong trào ấy, nhiều công trình chiến lược cách mạng tiếp viện cho miền Nam đánh Mỹ được ra đời như đường mòn Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn và tiếp đó có đường trên biển là tuyến đường quen thuộc của các tàu không số mà các chiến sỹ miền Bắc chở hàng hóa, súng đạn, dược phẩm, lương thực vào Nam. Sự thật ấy có nhiều người tâm sự với tôi có ý lý giải, Bác Hồ ở trên núi Trường Lệ ngoài sự nghỉ ngơi và làm việc, Bác còn nghiên cứu con đường chiến lược trên biển để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và sau này con đường ấy được gọi là đường Hồ Chí Minh trên biển, một huyền thoại kỳ vĩ góp phần chiến thắng giặc Mỹ xâm lược thống nhất nước nhà. Sau này, tôi có lần gặp bác Vũ Kỳ, thư ký riêng của Bác để tham khảo tư liệu cho việc sáng tác bức tranh, bác ấy cũng nói rõ ý đó theo một cách dí dỏm hơn: “Tôi theo Bác nhiều năm rồi nhưng đọc hết ý nghĩ trong đầu Bác thì khó lắm. Bác Hồ của chúng ta không phải vào Sầm Sơn nghỉ ngơi đâu mà Bác đi nghiên cứu chiến lược biển cho cách mạng miền Nam đó. Một lý do nữa, rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội làm việc, Bác rất nhớ rúi rừng Việt Bắc. Bác thường nói với các cô chú phục vụ ở văn phòng Phủ Chủ tịch về những hình ảnh Bác đi công tác qua rừng, lội suối, lúc lên núi, lúc trèo đồi ở chiến khu và chắc cũng có những hoài niệm đó mà Bác thích ở và làm việc trên núi Trường Lệ Sầm Sơn”. Khi sáng tác bức tranh này, tôi đã nhiều lần đến bảo tàng cách mạng, cơ quan lưu trữ tư liệu về Bác Hồ ở Hà Nội để tìm hiểu hình ảnh Người, song cũng không thu thập được gì ngoài mấy tấm ảnh đã chụp biển, làng chài và sinh hoạt với cư dân vào những ngày Bác ở Sầm Sơn năm 1960.
Trong những tấm ảnh tư liệu chụp Bác ở Sầm Sơn, kể cả những lời truyền miệng của dân và có một số văn bản cũng chỉ nói một số ý về Người ở dạng ký, như thăm gia đình nông dân, ngư dân, ảnh Bác Hồ kéo lưới, ảnh nói chuyện với cán bộ, nhân dân Sầm Sơn, v.v…, những tư liệu đó để có thể khái quát được hình tượng cao đẹp của Bác một cách đầy đủ với ý nghĩa là anh hùng giải phóng dân tộc và là nhà văn hóa kiệt xuất, vừa đượm chất thơ có tính lãng mạn huyền thoại, v.v… thì chưa đủ cứ liệu. Bởi vậy, tôi phải căn cứ nhiều tư liệu khác, nhất là hình ảnh của Người khi ở chiến khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp như Bác cùng bộ đội hành quân, ngồi câu cá và những vần thơ, những ngày còn bị giam ở nhà tù của giặc Tưởng, Bác vẫn lạc quan mà trong đó hình ảnh núi non vẫn đượm sắc màu, lãng mạn trữ tình trong thơ Bác. Trong bài đi đường của Bác, có đoạn viết:
“… Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
(Nhật ký trong tù nhà xuất bản Văn học 2006)
Hình tượng Bác Hồ trên đỉnh núi Trường Lệ không phải là hoàn toàn lấy từ ý thơ trên, nhưng chất thơ mang tính tự sự của Bác gợi lại hình ảnh của Người bước trên núi Trường Lệ mà sau mấy chục năm vẫn còn sống động như ngày ấy, vừa hiện thực vừa trừu tượng, lãng mạn làm sao.!
Đẹp biết chừng nào, trong khoảng trời bao la, trên đỉnh núi Trường Lệ Sầm Sơn, Bác lồng lộng với gương mặt đôn hậu hồng hào, đôi mắt dịu hiền và cái nhìn xa xăm, vẫn bộ quần áo nâu giản dị, chân đi dép cao su mà Bác thường dùng cho việc sinh hoạt hằng ngày đã để lại trong ta một cảm xúc gần gũi đến lạ thường. Hình ảnh Bác Hồ ngồi trên phiến đá ở núi Trường Lệ, tay cầm điếu thuốc, gợi lại cho người xem tranh liên tưởng đến câu thơ của Tố Hữu:
“Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút
Trán thênh thang, thanh thản một vùng trời”.
(Thơ Tố Hữu - Nhà xuất bản Văn học 2003)
Khi xây dựng hình tượng Bác Hồ trên đỉnh núi Trường Lệ, tôi vừa kết hợp những tư liệu thực mà Người ở, làm việc vừa phải khai thác chất thơ trong đời sống bình dị của Người mà ta thường gặp, Người không những là vị anh hùng của dân tộc, nhà tư tưởng, nhà văn hóa vĩ đại mà còn là một nhà thơ lớn. Với tính nhân văn ấy, người xem tranh còn thấy Bác giống như một ông Tiên, tọa trên núi, mà dung quang của Người tỏa sáng và thanh cao hòa lẫn với không gian biển, trời Trường Lệ.
Phương pháp cấu trúc hình tượng Bác, được thể hiện qua dáng thế trong không gian và thời điểm ở núi Trường Lệ, cách thức bố cục từ một quan niệm tự nhiên, giữa trời, đất và Người là một thể thống nhất theo triết lý “Thiên, địa, nhân” mà Bác Hồ là chủ thể. Sự miêu tả vùng trời ở đây là đầu mùa thu, không có nắng chói chang, bầu trời trong xanh, khí hậu Trường Lệ ấm áp ôn hòa. Những áng mây chiều nhiều sắc màu lãng đãng nhè nhẹ bay đan xen giữa núi, biển, tạo cảm giác sống động cho người xem tranh. Núi Trường Lệ có nhiều đồi nhấp nhô chen lẫn với màu xanh của rừng cây thông lá nhọn và được sắp xếp như những hàng sóng biển chạy dài theo làn gió Đông Nam mà Bác là trung tâm trên đỉnh núi, ngắm cảnh hùng vĩ của Trường Lệ. Xa xa ở đầu núi phía Nam là đền Cô Tiên nơi mà sớm hôm Bác đi về trong những ngày thăm đô thị Sầm Sơn. Núi Trường Lệ, được khái quát hóa và mở rộng tính ước lệ theo luật xa gần theo trường phái ấn tượng để tạo tính hùng vĩ và huyền ảo. Cách miêu tả bức tranh là không bê nguyên phong cảnh thực, tránh miêu tả theo lối tự nhiên chủ nghĩa trong nghệ thuật. Cảnh và người ở đây được cấu trúc vừa mang tính cụ thể chi tiết nhưng vừa khái quát ước lệ để người xem cảm thụ có chất thơ trong nét vẽ của tranh. Sự giao cảm ấy trong tâm hồn của Bác với phong cảnh ở núi Trường Lệ cũng giống như khi Người đến với thiên nhiên mọi miền của Đất nước. Nếu lấy năm 1960 là năm mở màn cho du lịch biển Sầm Sơn thì Bác Hồ là vị lãnh tụ tối cao của nước ta, lần đầu tiên đã có một chuyến du lịch thưởng ngoạn đầy ấn tượng ở Sầm Sơn Thanh Hóa.
Vẽ nhiều tranh về Bác mà tôi cảm thấy vẫn thiếu, thấy khó, bởi vì biết về Bác Hồ quá ít ỏi. Sau nhiều năm nghiên cứu tư liệu, phác thảo chỉnh sửa từ năm 1966 đến năm 1990 tác phẩm Bác Hồ trên đỉnh núi Trường Lệ mới cơ bản hoàn thành. Sau đó tác phẩm đã được giới thiệu trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương. Bức tranh đã được đăng ở trang nhất Báo Nhân dân 6/9/1992 và đăng tiếp vào các ngày 11/4, 20/5/2007, nhân kỷ niệm du lịch Sầm Sơn – thị xã một trăm năm tuổi.
Bức tranh “Bác Hồ trên đỉnh núi Trường Lệ” đã được tiển lãm mỹ thuật toàn quốc về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng tổ chức tại Hà Nội năm 2009 và đã triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 5 năm một lần) Tại Hà Nội năm 2010.
Có lẽ trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của Sầm Sơn, niềm tự hào lớn nhất của nhân dân địa phương là được Bác Hồ về thăm và cũng từ đó sự kiện ấy đã đi vào lịch sử như một bài ca huyền thoại không bao giờ tắt mà bức tranh sơn dầu Bác Hồ trên đỉnh núi Trường Lệ, Sầm Sơn, tôi sáng tác là một trong nhiều đề tài cảm hứng sáng tác văn học nghệ thuật của giới văn nghệ sỹ xứ Thanh và cả nước.
Họa sĩ: Hoàng Hoa Mai