Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hóa kiệt xuất, đã cống hiến trọn đời cho độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì cuộc sống no ấm hạnh phúc của nhân dân. Người để lại cho cho Đảng
ta, đất nước ta, nhân dân ta một văn kiện lịch sử vô giá, đó là bản Di
chúc thiêng liêng, mà đến nay và mãi về sau, chúng ta luôn ghi nhớ, học
tập và làm theo.
Di chúc của Người là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta, có giá trị
lý luận và thực tiễn to lớn về nhiều mặt; là sự kết tinh của tinh hoa
văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa của nhân loại, là những chỉ dẫn quý
báu, nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Di chúc là những lời căn dặn tâm huyết; mọi tâm nguyện cuộc đời,
Bác đều gửi gắm trong Di chúc. Đây là một văn kiện lịch sử vô giá, toát
lên khí phách, tinh thần lạc quan chiến thắng của một bậc “đại trí, đại
nhân, đại dũng”, là kết tinh giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại;
của tinh hoa tư tưởng, đạo đức, phong cách, tâm hồn cao đẹp của Người,
suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân và nhân loại.
Di
chúc là những lời căn dặn quý báu, là ánh sáng soi đường, là sức mạnh
thôi thúc hành động, không chỉ đối với nhân dân ta mà đối với các dân
tộc đã và đang đấu tranh cho tự do, độc lập, hòa bình, công lý, vì hạnh
phúc của con người.
Theo đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác Hồ, Bác bắt đầu viết những dòng đầu
tiên của bản Di chúc để lại cho muôn đời sau lúc 9 giờ sáng thứ hai,
ngày 10/5/1965, đến 10 giờ, Bác viết xong phần mở đầu. Bác xếp tài liệu
lại và chuyển sang làm các công việc thường ngày. Các ngày tiếp theo
(ngày 11, 12 và 13/5/1965), cũng vào giờ đó (từ 9 giờ đến 10 giờ), Bác
viết tiếp các phần còn lại. Riêng ngày 14/5/1965, do buổi sáng có lịch
đi thăm một hợp tác xã ở ngoại thành Hà Nội và dự một phiên họp của Bộ
Chính trị, Bác chuyển viết Di chúc sang buổi chiều với thời gian gấp
đôi, từ 14 giờ đến 16 giờ. Đúng 16 giờ, Bác đánh máy xong bản Di chúc và
cho vào phong bì. Đến 21 giờ hôm đó, Bác giao chiếc phong bì cho đồng
chí Vũ Kỳ và dặn: “Chú cất giữ cẩn thận, vào dịp này sang năm nhớ đưa
lại cho Bác”.
Và cứ đến dịp sinh nhật Bác hằng năm, đồng chí Vũ Kỳ lại đặt bản Di
chúc lên bàn làm việc của Bác; sau đó Bác bổ sung và giao lại cho đồng
chí Vũ Kỳ. Bác đọc kỹ bản Di chúc, xem xét, cân nhắc kỹ từng đoạn, từng
câu, từng ý, từng lời và bổ sung thêm vào bản Di chúc tùy theo tình hình
đất nước. Đặc biệt, qua tình hình chiến sự miền Nam, Bác lại viết thêm
những phần cần thiết vào bản Di chúc.
Năm 1966, Bác bổ sung thêm phần
nói về tự phê bình và phê bình trong Đảng, trong đó Bác nhấn mạnh: “Phải
có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Năm 1967, Bác xem lại bản Di
chúc, nhưng không sửa gì. Năm 1968, Bác viết thêm 6 trang, gồm một số
đoạn về việc riêng và một số công việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước thắng lợi.
Năm 1969, Bác xem và viết lại toàn bộ phần
mở đầu gồm 1 trang viết tay. Ngày 19/5/1969, Bác sửa lần cuối. Toàn
văn Di chúc được công bố sau ngày Bác Hồ qua đời (ngày 2/9/1969).
Di
chúc và toàn bộ tư tưởng của Bác là tài sản vô giá để lại cho Đảng và
nhân dân ta.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết trong giai đoạn cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra hết sức ác liệt và có những dấu mốc
quan trọng; cách mạng dù còn khó khăn, song đang trên đà thắng lợi, đồng
thời đòi hỏi sự đoàn kết, chiến đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng.
Là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Người đã dẫn dắt Đảng
và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Bác đặc biệt quan
tâm căn dặn: “Trước hết nói về Đảng”. Trong Di chúc, Bác nhấn mạnh
“Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”.
Người tâm huyết nhắc nhở các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ “cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”.
Trong Di chúc, Bác Hồ cũng chỉ rõ: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể
còn kéo dài…” và “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ
hoàn toàn thắng lợi”. Người cũng thường căn dặn và mong muốn, sau khi
chiến tranh kết thúc, cần ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, phát
triển đất nước; Đảng và Nhà nước phải quan tâm chăm lo tới mọi đối tượng
trong xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Đối với đoàn viên thanh niên, trong Di chúc Bác chỉ rõ vai trò của
thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thể
hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Bác đối với việc bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau. Bác căn dặn và nhấn mạnh: “Đảng cần phải chăm lo
giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế
xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Dân tộc ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm bảo
vệ nền độc lập dân tộc. Sau mỗi lần chiến thắng, ông cha ta lại có kế
sách để bồi dưỡng sức dân, tăng cường lực lượng. Di chúc của Bác đã kế
thừa truyền thống lâu đời đó của dân tộc ta. Với tình thương bao la dành
cho mọi tầng lớp nhân dân, Bác đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh: “Nhân
dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng
gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua
nhiều năm chiến tranh. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển
kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Trong Di chúc, Bác đưa ra lời tiên đoán có tính chất khẳng định, như
một tất yếu của lịch sử: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài. Đồng
bào ta có thể hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải
quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn” và “Dù khó khăn gian
khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi”.
Trong Di chúc, Bác viết : “…Tôi mong rằng, Đảng ta sẽ ra sức hoạt động,
góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh
em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có
lý, có tình”.
Suốt đời phục vụ nhân dân, đất nước, trong Di chúc Bác không đề cập đến
“cá nhân” hay “bản thân”, mà nói “về việc riêng”, bởi suốt đời Bác phấn
đấu cho hạnh phúc của toàn dân. Cái riêng của Bác hòa trong cái chung
của dân tộc. Suốt đời Bác vì dân, vì nước, vì Đảng, nên không lúc nào
Bác nghĩ đến bản thân mình. Trước lúc đi xa, Người “không có điều gì
phải hối hận” vì Bác đã phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân hết sức, hết
lòng. Người “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa,
nhiều hơn nữa”.
Mỗi dòng, mỗi điều Bác Hồ viết và để lại trong Di chúc là chỉ dẫn vô
giá, là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam, để đất nước ta được
phồn vinh, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc. Thế mà Bác chỉ coi đó
là “để sẵn mấy lời” trước khi đi xa. Nhưng đó là tâm nguyện, là tình
cảm, ý chí, trách nhiệm đối với Tổ quốc, đối với nhân dân và sự nghiệp
cách mạng. Đó cũng là niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng của dân
tộc.
Cho đến những ngày cuối đời, Bác vẫn ấp ủ ước mơ, khát khao cháy
bỏng đưa đất nước ta tiến lên "Sánh vai cùng năm châu bốn biển". Và điều
mong muốn cuối cùng của Bác, cũng là những dòng cuối cùng Người viết
trong Di chúc: “Toàn Đảng, toàn dân ta phấn đấu đoàn kết, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới./.
“Đảng ta là một
đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân".
(Trích Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh)
|
Nguyễn Văn Công
Giám đốc Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
(Nguồn: qdnd.vn)