Có thể ghi nhận một điều, ở nước nào có cộng đồng người Việt đông
đảo, các hội đoàn thể hoạt động bài bản, quy củ, đặc biệt sự có mặt
của Hội phụ nữ, ở đó, bản sắc văn hóa dân tộc được duy trì, phát huy
đậm nét.
Gìn giữ bản sắc văn hóa nơi xứ người
Từ năm 1997 đến năm 2010, tại Kharkov (nước Cộng hòa Ucraina) tồn tại
Trường tiểu học “Mùa Xuân”. Tại đây, con em cộng đồng được học tiếng
Việt từ lớp 1 đến lớp 4. Sau đó, mô hình dạy tiếng Việt được đổi sang
hình thức mới phù hợp hơn, đó là dạy tiếng Việt miễn phí cho các cháu
tại các khu dân cư của cộng đồng người Việt. Bà Nguyễn Thị An, Hội phụ
nữ tỉnh Kharkov cho biết: “Hội giữ vai trò then chốt trong việc mở lớp
tiếng Việt ở đơn vị mình. Hiện nay, chúng tôi có 12 lớp học tiếng Việt
với hơn 200 cháu tham gia”.
Cộng hòa Séc có khoảng 70 nghìn người Việt đang sinh sống và kinh
doanh, trong đó, chị em phụ nữ chiếm tỷ lệ đông đảo. Bà Vũ Thị Hà, Phó
Chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam tại Cộng hòa Séc chia sẻ: Ở bất cứ nơi
đâu, trách nhiệm đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam cũng là chăm lo gia
đình ổn định về kinh tế, phong phú về tinh thần và vững chãi về tâm
linh. Nhưng ở nước ngoài, người phụ nữ còn phải gánh thêm sứ mệnh đặc
biệt quan trọng, đó là giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam. Chính bản sắc
ấy tạo cho cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài một vị thế vững chãi, đáng
tôn trọng, đem lại sức mạnh cho mỗi con người Việt Nam.
Bản sắc văn hóa ấy thể hiện ở nhiều khía cạnh đời sống: ẩm thực, tình
làng nghĩa xóm, nền nếp gia phong, phong tục lễ, tết… cho đến vấn đề
lớn như duy trì tiếng mẹ đẻ.
“Ở trong nước, các bà mẹ có sẵn môi trường thuận lợi, còn đối với
chúng tôi là cả vấn đề khó khăn. Nhiều bà mẹ hằng tuần phải chở con
hàng trăm km tham gia một buổi học tiếng Việt, hay Tết Trung thu, lễ Vu
Lan, nơi mọi người có thể nói hoàn toàn bằng tiếng mẹ đẻ” - bà Vũ Thị
Hà cho biết thêm.
Đối với cộng đồng người Việt tại Campuchia, một cộng đồng mang tính
đặc thù, riêng biệt, đa phần bà con Việt kiều có cuộc sống tương đối
khó khăn, vất vả, vì vậy việc bảo tồn bản sắc văn hóa Việt, giữ gìn
tiếng Việt càng gặp nhiều khó khăn.
Bà Phạm Thanh Thủy, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Tổng hội người
Campuchia gốc Việt tại Vương quốc Campuchia cho biết: Nhằm giữ gìn bản
sắc văn hóa Việt Nam, trong đó có giữ gìn tiếng mẹ đẻ, Tổng Hội thành
lập các ban chuyên trách, trong đó Ban Văn hóa, giáo dục, Ban Xã hội,
từ thiện, đề cao vai trò phụ nữ trong công tác tuyên truyền, vận động
bà con cộng đồng đưa con em đến trường lớp học tiếng Khmer để hòa nhập
với cộng đồng nước sở tại. Đồng thời, Tổng hội vận động chị em đưa con
tham gia các lớp học tiếng Việt trình độ từ lớp 1 đến lớp 5. Theo thống
kê, năm học 2013-2014 đã có 18 điểm trường, lớp dạy tiếng Việt do Tổng
hội và tỉnh hội người Campuchia gốc Việt tổ chức với hai nghìn học
sinh.
Còn đó những khó khăn
Bà Hoàng Thị Hiền, Chủ nhiệm CLB Phụ nữ Việt Nam tại Rumani chia sẻ:
Giữ được tiếng mẹ đẻ cho con trẻ nơi đất khách, quê người là một việc
khó. Không ít phụ huynh chấp nhận sự thật phũ phàng là để con cháu mình
không biết nói tiếng Việt. Cản trở lớn nhất, theo tôi đó không phải
con cháu chúng ta không có ý thức, lười biếng mà chính là phụ huynh mải
lo làm ăn, thiếu quan tâm và quyết tâm.
Bên cạnh đó, là việc thiếu đội ngũ giáo viên, phương pháp và tài liệu
giảng dạy. Mặc dù các cơ quan chức năng trong nước như Ủy ban người
Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đã có nhiều cố gắng đáp ứng nhu cầu dạy và học tiếng Việt ngày
càng cao của cộng đồng người Việt ở nước ngoài, nhưng có một sự thật
cần thừa nhận đó là tình trạng dạy và học tiếng Việt còn chắp vá, chưa
chính quy.
Có những nơi còn phải dò dẫm cách làm, lúng túng về phương pháp, cần
sự chỉ đạo thống nhất hoặc những tư vấn về chuyên môn cần thiết từ
trong nước về chương trình, phương pháp giảng dạy, giáo án, giáo trình,
sách giáo khoa, sách tham khảo, công cụ sư phạm ngoại khóa.
Đội ngũ giáo viên cũng là một vấn đề nan giải. Có địa bàn không đủ
khả năng mời giáo viên chuyên nghiệp từ trong nước sang, chấp nhận làm
theo kiểu được chăng hay chớ, dựa vào sự nhiệt tình của một vài thành
viên trong cộng đồng có kiến thức sư phạm.
Do đó, bà Vũ Thị Hà kiến nghị: “Chúng tôi, những người ngày đêm tâm
huyết với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, cũng như phụ huynh các
cháu nhỏ sinh ra và lớn lên tại nước ngoài mong các ban ngành trong
nước quan tâm, khích lệ chúng tôi bằng những hành động cụ thể: gửi tài
liệu dạy và học để nâng cao hiệu quả, đồng thời xem xét hình thức bồi
dưỡng nâng cao trình độ giáo viên, để các cô giáo yên tâm công tác”.
Bà Hoàng Thị Hiền lại cho rằng các cơ quan trong nước cần có những
giải pháp hỗ trợ tìm nguồn giáo viên dạy tiếng Việt ổn định lâu dài cho
cộng đồng người Việt ở nước ngoài, song song với việc tổ chức các lớp
tập huấn chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy giữa giáo viên tại
các nước trong khu vực.
Bên cạnh đó, chúng tôi mong muốn kênh truyền hình VTV4 sớm cải thiện
hơn nữa những chương trình giáo dục, văn hóa nghệ thuật. Kiến nghị các
cơ quan thông tin tuyên truyền xây dựng thêm nhiều trang mạng giới
thiệu về tiếng Việt, văn hóa Việt, bảo đảm chất lượng sư phạm, phù hợp
với thị hiếu giới trẻ để thu hút các cháu ham mê học tiếng Việt hơn
nữa.
Bà Phan Bích Thiện, Chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam tại Hungari lại có
đề xuất: Thời gian qua, Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài đã tổ chức
trại hè cho thanh thiếu nhi Việt Nam ở nước ngoài, giúp các cháu hiểu
thêm nhiều về quê hương, động viên các cháu hướng về đất nước. Nếu có
thể, chúng ta nên tạo điều kiện để các cháu thường xuyên về Việt Nam.
Đây là cơ hội thực hành nói tiếng Việt rất tốt, khuyến khích các cháu
nhận thức rõ hơn về sự cần thiết phải học tiếng Việt./.