Theo bài viết, chuyến thăm làm việc tại Mỹ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ mở ra cơ hội cho hai bên thảo luận chính sách và việc thực thi chính sách trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại cũng như các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm.
Mặc dù chính quyền mới của Mỹ đã có những thay đổi trong chính sách đối ngoại, Việt Nam và Mỹ vẫn có thể làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác toàn diện vì lợi ích chung và lâu dài của nhân dân hai nước.
Hai thập kỷ kể từ khi bình thường hóa quan hệ, hợp tác Việt-Mỹ hiện đang đứng trước cơ hội được thắt chặt hơn do các hoạt động hiếu chiến của Trung Quốc tại Biển Đông. Sự xích lại gần nhau giữa hai nước còn xuất phát từ tiềm năng của thị trường Việt Nam với 92 triệu dân cùng vị thế không ngừng được nâng cao của Việt Nam trong ASEAN và tại các thể chế khu vực khác.
Chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chứng tỏ một điều rằng Việt Nam và Mỹ đã sẵn sàng tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau cùng các mối quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực thương mại, giáo dục, an ninh quốc phòng và hàng hải.
Chính sách châu Á của Mỹ đã có sự điều chỉnh kể từ khi tổng thống Donald Trump lên nắm quyền. Mỹ đã tạm ngừng chính sách xoay trục hướng tới châu Á, rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Thay vào đó, Nhà Trắng đã kêu gọi và mời lãnh đạo các nước châu Á tới thăm Nhà Trắng.
Sau chuyến thăm làm việc tại Mỹ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, rất có thể Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ tới Việt Nam vào tháng 11 để tham dự hội nghị thượng đỉnh APEC tại Đà Nẵng và thăm chính thức Việt Nam. Nếu điều này trở thành hiện thực thì rõ ràng Việt Nam đã xây dựng được mối quan hệ an ninh và thương mại chặt chẽ với Mỹ.
Phó Giám đốc chương trình nghiên cứu Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) có trụ sở tại thủ đô Washington DC, Mỹ, Murray Hiebert cho biết "Để có chính sách phù hợp, Việt Nam rất muốn hiểu rõ hơn về chính sách kinh tế của Mỹ tại khu vực sau khi Nhà Trắng rút khỏi TPP."
Trong bối cảnh Tổng thống Donald Trump vừa ký sắc lệnh hồi tháng trước kêu gọi "Mua hàng Mỹ, thuê người Mỹ" nhằm bảo vệ người lao động Mỹ trước lao động giá rẻ nước ngoài, Việt Nam muốn Mỹ hiểu rằng trong khi Mỹ là thị truờng lớn nhất và quan trọng của Việt Nam thì Việt Nam cũng là điểm đến ngày càng quan trọng của hàng hóa Mỹ.
Lãnh đạo hai nước đã quyết định gác lại quá khứ đau thương, hướng tới tương lai với tầm nhìn lớn hơn. Năm 1994, Mỹ đã dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận kinh tế chống Việt Nam. Kể từ đó, quan hệ kinh tế Việt-Mỹ không ngừng được phát triển.
Năm 2001, hai nước đã ký hiệp định thương mại song phương (BTA). Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO). Năm 2013 đánh dấu cột mốc quan trọng trong quan hệ hai nước khi Việt - Mỹ chính thức trở thành đối tác toàn diện.
Toàn cầu hóa và sự cải cách thị trường sâu rộng tại Việt Nam
Cả Việt Nam và Mỹ đều nhận thức được rằng toàn cầu hóa đã đem lại những thành quả tích cực cho Việt Nam, phản ánh rõ nét trong các nhà máy sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài, điển hình như trường hợp đầu tư của tập đoàn Nike của Mỹ tại Việt Nam đã tạo ra hơn 400.000 việc làm cho các lao động nữ.
Các dòng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đổ vào Việt Nam còn góp phần giúp Việt Nam giảm tỉ lệ nghèo, tăng mức sống và tuổi thọ cho người dân.
Trong bài phân tích "Kỳ tích của Nike" đăng trên tuần san nổi tiếng của Anh The Spectator, chuyên gia cao cấp tại viện Cato chuyên nghiên cứu về chính sách công có trụ sở đặt tại thủ đô Washington DC, Mỹ, Johan Norberg đã viết: "Nike và Coca-Cola đã giành được những thắng lợi tại nơi mà bom Mỹ đã thất bại. Họ đã gặt hái được thành công tại Việt Nam."
Trong bảy năm qua, thương mại hai nước đã tăng gần gấp 3 lần, đạt đỉnh 52 tỷ USD. Trong đó kim ngạch xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam tăng 43.2% vào năm 2016, đây là mức tăng cao nhất trong số 30 đối tác thương mại của Mỹ và là mức tăng duy nhất với hai con số.
Trang nhất tờ thời báo The Washington Times.
Nền kinh tế 200 tỷ USD của Việt Nam với 40% từ sản xuất đã có bước tăng trưởng ngoạn mục kể từ năm 2011, trong đó động lực chủ yếu xuất phát từ xuất khẩu các mặt hàng như dày dép, điện thoại thông minh sản xuất tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, hội nhập vào thị truờng thế giới đã mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội mới và giúp Việt Nam cải cách một cách sâu rộng.
Ngành sản xuất của Mỹ cũng hưởng lợi từ sự tăng trưởng của Việt Nam. Tập đoàn General Electric (GE) của Mỹ đã giành được hợp đồng cung cấp các tua bin gió do Mỹ sản xuất cho Việt Nam. Năm ngoái, hãng Boeing đã thắng thầu trị giá 11,3 tỷ USD bán 100 máy bay vận chuyển hành khách cho hãng hàng không VietJet Air của Việt Nam.
Sự tăng trưởng kinh tế kỳ diệu của Việt Nam có thể nhìn thấy ngay trong hình ảnh giới trẻ của Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh với những chiếc xe máy Dream mới cùng những chiếc Iphone trên tay bước vội vã vào các văn phòng làm việc tại các tòa nhà cao trọc trời.
Với dân số hơn 92 triệu người, một nửa trong số đó dưới 30 tuổi, không còn nghi ngờ gì nữa, Việt Nam với thu nhập bình quân 3.600 USD đã bước qua đói nghèo, vượt một số quốc gia láng giềng, đồng thời có thể cung cấp cho thị trường một lực lượng lao động có chất lượng.
Hiện có tới hơn 24.000 thanh niên Việt Nam đang học tập tại Mỹ, trong đó có khoảng 600 sinh viên học theo chương trình học bổng Fullbright. Năm ngoái, trường đại học Fulbright tại Tành phố Hồ Chí Minh đã được khai trương. Điều này thể hiện sự hợp tác chặt chẽ trên lĩnh vực đào tạo giữa hai nước.
Phát triển quan hệ an ninh quốc phòng Việt-Mỹ
Bên cạnh những thành công đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, cả Việt Nam và Mỹ đều có quan ngại chung về các hành động hiếu chiến của Trung Quốc trên biển. Sự hiện diện của Mỹ tại Đông Nam Á có thể tạo ra sự đối trọng chiến lược tại Biển Đông. Do đó, các chủ đề liên quan đến việc Trung Quốc tôn tạo, bồi đắp các đảo nhân tạo, hủy hoại các rạn san hô, tiến hành các hoạt động quân sự hóa tại Biển Đông có thể được đem ra bàn thảo khi hai bên thảo luận về các thách thức an ninh đang gia tăng tại khu vực.
Việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo tại Biển Đông đã thúc đẩy quan hệ hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ được tăng cường.
Kể từ khi Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, Việt Nam đã tiến hành đàm phán với các nhà sản xuất vũ khí của Mỹ và phương Tây nhằm tìm kiếm các loại vũ khí phù hợp như máy bay chiến đấu, trực thăng, máy bay tuần tra hàng hải...
Ngày 22/5/2017, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius đã chính thức bàn giao sáu tàu tuần tra Metal Shark cho cảnh sát biển Việt Nam, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hợp tác an ninh quốc phòng giữa hai nước.
Theo các chuyên gia, sự hợp tác trên lĩnh vực an ninh quốc phòng Việt-Mỹ còn bao gồm cả một số hoạt động chung giữa lực lượng hải quân hai nước. Việt Nam hiện đã cho phép các tàu tuần duyên và hải quân Mỹ đến Cam Ranh để sửa chữa và bảo dưỡng. Theo Chương trình Đối tác Thái Bình Dương, hải quân Mỹ đã nhiều lần viếng thăm cảng tại Đà Nẵng. Kể từ năm 2014, Mỹ cũng đã giúp Việt Nam xây dựng năng lực an ninh hàng hải thông qua các chương trình hỗ trợ lực lượng thực thi pháp luật cho các nước của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Bài báo kết thúc đưa ra một số khuyến nghị góp phần thặt chặt hơn nữa mối quan hệ đối tác toàn diện Việt-Mỹ đó là Mỹ cần thực hiện các bước, tiến tới công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam; đảm bảo an ninh an toàn hàng hải, tăng cường các hoạt động chung của hải quân hai nước; tăng cường sự kết nối trên lĩnh vực giáo dục đào tạo giữa các trường đại học Mỹ và Việt Nam; hợp tác trên lĩnh vực khoa học nghiên cứu các tác động của biến đổi khí hậu, nhất là các tác động của biến đổi khí hậu đối với vùng đồng bằng hạ nguồn sông Mekong; tiếp tục các hoạt động giải quyết hậu quả chất độc da cam/dioxin và rà phá bom mìn còn sót lại sau chiến tranh tại Việt Nam./.
(TTXVN)