Công bố việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ sư
phạm là rất quan trọng nhưng khi thực hiện còn nhiều bất cập, vướng mắc…
Bộ
Giáo dục và Đào tạo vừa yêu cầu các trường đại học, cao đẳng sư phạm
trong cả nước phải báo cáo tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp
hệ chính quy theo từng năm, bắt đầu thực hiện từ năm 2016. Đây là yêu
cầu bắt buộc, là điều kiện để Bộ xem xét việc tuyển sinh hàng năm của
các trường. Thế nhưng, do tỷ lệ sinh viên đã tốt nghiệp gửi thông tin
phản hồi rất ít, nên việc lập cáo cáo của các trường rất khó khăn và độ
tin cậy của báo cáo cũng chưa cao.
Theo
công văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học và các trường
cao đẳng sư phạm phải thu thập thông tin, báo cáo về tình hình việc làm
của sinh viên sau khi tốt nghiệp theo 3 nội dung là: tình trạng việc làm
của sinh viên sau khi tốt nghiệp, khu vực làm việc của sinh viên đã tốt
nghiệp và đánh giá mối quan hệ giữa kết quả đào tạo và tình trạng việc
làm của sinh viên tốt nghiệp.
Mục
đích nhằm cung cấp, cập nhật thông tin về tình trạng việc làm của sinh
viên tốt nghiệp và khả năng tham gia vào thị trường lao động của sinh
viên. Trên cơ sở đó, các trường nghiên cứu, xem xét, điều chỉnh chỉ tiêu
tuyển sinh, cơ cấu ngành đào tạo; điều chỉnh, bổ sung cập nhật nội dung
chương trình giảng dạy nhằm nâng cao tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc
làm. Báo cáo này phải được đăng tải công khai trên trang thông tin điện
tử của trường.
Đây
không phải là lần đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các trường
công bố thông tin sinh viên tốt nghiệp có việc làm. Trước đó, trong
Thông tư 09 năm 2009 của Bộ về Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở
giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân cũng có yêu cầu các trường phải
công khai tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm và học lên trình độ
cao hơn sau 1 năm ra trường, nên nhiều trường đã thực hiện việc thu thập
thông tin của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
|
Việc công bố việc làm của sinh viên tốt nghiệp không phải dễ dàng (ảnh minh họa) |
Bà
Đặng Hương Giang, Trưởng phòng Công tác chính trị và quản lý sinh viên,
Trường Đại học Thủy lợi cho biết, trường thực hiện điều tra về tình
hình việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp từ năm 2009 với nhiều
hình thức khác nhau, như: qua website của trường, email, bưu điện, mạng
xã hội. Kết quả của việc điều tra giúp cho trường đánh giá đúng hơn về
chất lượng chương trình đào tạo. Cũng từ đó, nhà trường có biện pháp
điều chỉnh phù hợp với nhu cầu sử dụng nhân lực của xã hội.
Khi
nhận được công văn của Bộ triển khai việc điều tra việc làm của sinh
viên sau khi tốt nghiệp, trong khoảng 1 ngày khi chúng tôi bổ sung thêm
các tiêu chí phù hợp của Bộ thì đã có khoảng gần 200 em và thậm chí các
em đã tốt nghiệp cách đây 2 năm, 3 năm vẫn vào hệ thống đó để đánh giá.
Việc đánh giá sinh viên sau khi tốt nghiệp là một kênh rất quan trọng để
nhà trường điều chỉnh chương trình cho phù hợp. Bởi vì từ sinh viên tốt
nghiệp, từ các doanh nghiệp thì trường mới đánh giá được là chương
trình đào tạo, ngành nghề của trường hiện nay có còn đáp ứng được nhu
cầu xã hội hay không.
Mặc
dù việc thu thập thông tin, công bố tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc
làm là yêu cầu bắt buộc nhưng việc khảo sát của các trường lại đang gặp
một số khó khăn. Hầu hết các trường đại học ở Việt Nam chưa có một hệ
thống theo dõi hồ sơ người học tốt, độ tin cậy của các thông tin về điện
thoại, email hay địa chỉ của người học rất hạn chế. Trong khi đó, ở
Việt Nam từ trước đến nay không có quy định hay thói quen sinh viên tốt
nghiệp kết nối với trường. Nhiều em sau khi có việc làm thì thay đổi số
điện thoại, email gây khó khăn cho các trường trong việc nắm bắt tình
hình công việc của cựu sinh viên. Vì vậy, khi các trường gửi phiếu khảo
sát thì số lượng cựu sinh viên trả lời thông tin chỉ từ 40% đến 60%, có
trường chỉ nhận được từ 10% đến 40% phiếu trả lời.
Ông
Đinh Văn Hải, Trưởng phòng Công tác Chính trị và Công tác sinh viên,
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nêu thực tế: “Khó khăn nhất vẫn là làm
thế nào để giữ được mối liên lạc với các sinh viên sau khi ra trường.
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội khảo sát theo khoảng thời gian là sau
khi tốt nghiệp 3 tháng, sau tốt nghiệp 6 tháng, 1 năm và nhiều năm thì
tùy vào từng đợt. Với sinh viên vừa tốt nghiệp khoảng 3 tháng thì tỷ lệ
khảo sát trả lời của chúng tôi là trên 80%, vì chúng tôi tổ chức khi các
em về lấy bằng. Tuy nhiên, với sinh viên tốt nghiệp khoảng 6 tháng đến 1
năm thì tỷ lệ thấp hơn, được khoảng 50-60%”.
Theo
ông Phạm Quốc Khánh, Trưởng phòng Quản lý Đào tạo, Học viện Ngân hàng,
thông tin về tỷ lệ việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp sẽ giúp học
sinh, sinh viên hình dung được nhu cầu của thị trường đối với ngành đào
tạo và sự chấp nhận của xã hội đối với chất lượng đào tạo của trường mà
họ muốn theo học. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ sinh viên đã tốt nghiệp trả lời
phiếu điều tra thấp so với tổng số sinh viên tốt nghiệp hàng năm thì sẽ
không đánh giá đúng về tình hình việc làm và nhu cầu nhân lực của xã
hội.
“100%
sinh viên tốt nghiệp là chúng tôi đều hỏi, nhưng phản hồi về không được
nhiều. Tỷ lệ phản hồi của sinh viên chỉ dao động khoảng trên 10% đến
30% sinh viên tốt nghiệp sau 1 năm. Các số liệu khảo sát dựa trên mẫu mà
chúng tôi ghi nhận được thì thường tỷ lệ sinh viên có việc làm sau 1
năm rất cao, từ 87% -90%. Tuy nhiên, tỷ lệ trả lời của các em thấp dẫn
tới là tin cậy về mức độ có việc làm của các em không cao”- ông Phạm
Quốc Khánh nói.
Dù
việc thu thập thông tin và công bố kết quả về tình hình việc làm của
sinh viên sau khi tốt nghiệp có nhiều khó khăn, nhưng các trường đều
khẳng định, tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp là một trong
những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng đào tạo. Trên cơ sở tỷ
lệ việc làm của sinh viên tốt nghiệp sẽ giúp các trường xem xét, điều
chỉnh chỉ tiêu tuyển sinh, cơ cấu đào tạo, điều chỉnh, cập nhật nội dung
chương trình đào tạo, đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động.
Nếu
việc khảo sát được các trường thực hiện khoa học, bài bản, kết quả
chuẩn xác thì sẽ là tiêu chí để các trường xây dựng thương hiệu, tạo sự
cạnh tranh trong đào tạo, từ đó giúp nâng cao tỷ lệ sinh viên có việc
làm sau khi tốt nghiệp./.
Theo VOVnews