Thứ Tư, 27/11/2024
Thế giới
Chủ Nhật, 2/12/2012 22:40'(GMT+7)

Bước tiến lớn của ASEAN trên lĩnh vực nhân quyền

 Thế nhưng ngay sau khi Tuyên ngôn được thông qua, nhiều tổ chức nhân quyền phi chính phủ (NGOs) ở nhiều nước trong khu vực và Hoa Kỳ đã lên tiếng phê phán Tuyên ngôn. Trước đó, sau khi có được những thông tin “rò rỉ” về nội dung của Tuyên ngôn, các tổ chức này đe dọa rằng, họ sẽ “quyết tâm” từ chối Tuyên ngôn nếu nó được thông qua (với những nội dung như bản dự thảo).

Nhận xét về văn kiện này, họ nói: “Không nghi ngờ gì nữa, nó không đáp ứng các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế, huống hồ lại thêm thắt cho nó. Nó đi ngược lại các nguyên tắc nhân quyền đã tồn tại trong hơn sáu thập kỷ qua… nó xé nát những khái niệm cốt lõi của quyền con người vốn đã được chấp nhận từ lâu”. Chúng ta sẽ trở lại những chứng cứ và “phản biện” của họ sau.

Sau đây, xin được giới thiệu những nội dung cơ bản của Tuyên ngôn.

Trong phần Mở đầu, Tuyên ngôn khẳng định sự tuân thủ các nguyên tắc và mục đích của ASEAN; khẳng định cam kết của ASEAN đối với các văn kiện của Liên hợp quốc bao gồm: Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Tuyên bố Viên và Chương trình hành động. Cũng trong phần này, Tuyên ngôn còn nhấn mạnh cam kết tôn trọng và xúc tiến các nguyên tắc dân chủ, các quy định của pháp luật và quản trị tốt. Đồng thời, Tuyên ngôn được xem là sự góp phần vào quá trình xây dựng cộng đồng ASEAN.

Trong phần Các Nguyên tắc chung, Tuyên ngôn đề cập đến sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của tất cả mọi người theo nguyên tắc tự do, bình đẳng; tất cả các quyền con người là phổ quát, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau; quyền của mọi thành viên được công nhận về pháp lý ở mọi nơi và được xét xử công bằng, đúng pháp luật bởi một tòa án hợp pháp. Trong phần này, Tuyên ngôn nhấn mạnh: “Việc hưởng các quyền con người và các quyền tự do cơ bản phải được cân bằng với việc thực hiện các nghĩa vụ tương ứng”; “Việc thực hiện các quyền con người phải được xem xét trong bối cảnh khu vực và quốc gia dựa trên sự thừa nhận sự khác nhau về chính trị, kinh tế, pháp lý, xã hội, văn hóa, lịch sử và tôn giáo”; “Việc thực hiện các quyền và tự do cơ bản phải chịu những giới hạn theo quy định của pháp luật chỉ nhằm mục đích bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của người khác và để đáp ứng yêu cầu về an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe cộng đồng, an toàn công cộng, đạo đức công cộng, cũng như phúc lợi chung, trong một xã hội dân chủ”.

Trong các phần tiếp theo, Tuyên ngôn khẳng định các quyền con người trên lĩnh vực dân sự, chính trị (gồm 14 quyền), kinh tế, xã hội và văn hóa (gồm 8 quyền). Đồng thời, Tuyên ngôn cũng khẳng định quyền phát triển và quyền được sống trong hòa bình của mọi thành viên trong cộng đồng ASEAN. 

Có thể nói các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của Tuyên ngôn hoàn toàn thống nhất với nội dung các quyền con người trong Bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948; thống nhất với các văn kiện của các Hội nghị nhân quyền quốc tế, đặc biệt là Hội nghị nhân quyền ở Viên (Áo), 1993.

Những sự khác biệt nào đó của Tuyên ngôn này nói chung chỉ là cụ thể hóa các quyền con người gắn với đặc thù khu vực và trong bối cảnh toàn cầu hóa. Chẳng hạn như quyền “không bị bắt làm nô lệ” nay được gắn với quyền không trở thành đối tượng “buôn người, kể cả cho mục đích buôn bán nội tạng người”; hay quyền được chăm sóc sức khỏe nay gắn với quyền được tiếp cận “dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản với giá cả phải chăng, quyền tiếp cận cơ sở y tế”; hay quyền không bị kỳ thị, phân biệt đối xử của những người sống chung với HIV/AIDS là vấn đề Tuyên ngôn quan tâm nhiều hơn so với các văn kiện nhân quyền quốc tế. Đây là những vấn đề “nóng” ở các quốc gia trong khu vực.

Trong dịp công bố văn kiện này, Tiến sĩ Om Yentieng - người chủ trì nhiệm vụ chắp bút Tuyên ngôn nói: “Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN (AHRD) là văn kiện chính trị chứ không phải văn bản pháp luật”… “Tuyên ngôn bày tỏ ý chí và quyết tâm của chính phủ các nước ASEAN trong việc thực hiện nhân quyền của khối”… “Tiếp theo, chính phủ các nước ASEAN sẽ chuẩn bị và ký kết một số Công ước mang tính ràng buộc (về mặt pháp lý) đối với các chính phủ trong việc tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của khoảng 600 triệu dân trong khu vực ASEAN”.

Bây giờ hãy xem người ta phê phán Tuyên ngôn như thế nào?

Theo họ, Tuyên ngôn khẳng định “Việc hưởng các quyền con người và các quyền tự do cơ bản phải được cân bằng với việc thực hiện các nghĩa vụ tương ứng”; “Việc thực hiện các quyền và tự do cơ bản phải chịu những giới hạn theo quy định của pháp luật…” là “không phù hợp với chuẩn mực nhân quyền quốc tế”. Thật ra, những nguyên tắc trên đây không phải là sáng tạo của ASEAN. Những nguyên tắc này đã được quy định trong “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị” năm 1966. Trong công ước nói trên, các quyền “tự do thực hành tín ngưỡng, tôn giáo”; quyền “tự do ngôn luận”; quyền “ hội họp hòa bình”; quyền tự do “lập hội” đều là những quyền bị hạn chế ” vì “an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng, hoặc các quyền và tự do của người khác” .

Về nguyên tắc: “Việc thực hiện các quyền con người phải được xem xét trong bối cảnh khu vực và quốc gia dựa trên sự thừa nhận sự khác nhau về chính trị, kinh tế, pháp lý, xã hội, văn hóa, lịch sử và tôn giáo” của Tuyên ngôn, theo họ cũng là cố tình tạo ra “lỗ hổng” để các chính phủ vi phạm quyền con người! Thật ra, đây cũng không phải là phát hiện của ASEAN. Nguyên tắc này cũng đã được Hội nghị nhân quyền quốc tế ở Viên (Áo), 1993 khẳng định. Văn kiện “Tuyên bố Viên và Chương trình hành động” ghi: “Các quyền con người đều mang tính phổ quát”… Trong khi thực hiện quyền con người “phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc và khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo” .

Đối với Việt Nam, quyền con người được xem là bản chất của chế độ và của Nhà nước. Chính vì vậy, Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có hai công ước quốc tế cơ bản, bao quát các quyền và tự do cơ bản của mọi người. Đó là “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị”, 1966; “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa”, 1966. Trong quá trình soạn thảo Tuyên ngôn, Việt Nam luôn là thành viên tích cực, có trách nhiệm. “Chúng tôi đã học được nhiều về nhân quyền ở Việt Nam, chẳng hạn như việc bảo đảm quyền của phụ nữ hoặc bảo đảm quyền con người trong trại giam…”, Chủ tịch AICHR Om Yentieng nói.

Nhiều người đặt câu hỏi: Đằng sau việc phê phán Tuyên ngôn “không đáp ứng các chuẩn mực nhân quyền quốc tế” là gì?

Kinh nghiệm nhiều thập kỷ qua cho thấy,  con bài dân chủ, nhân quyền thường được sử dụng như một chiến lược để chuyển hóa chế độ chính trị và can thiệp vào công việc của các quốc gia. Đằng sau việc phê phán nội dung Tuyên ngôn, nhất là các nguyên tắc của văn kiện này cũng nằm trong chiến lược đó. Hơn nữa, người ta còn xem việc biên soạn và công bố Tuyên ngôn là một cơ hội lớn để chuyển hóa “cả gói” các quốc gia trong ASEAN theo mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây dựa trên chính Tuyên ngôn này. Chí ít thì họ cũng có thể giúp cho các cá nhân, tổ chức chính trị có quan điểm đối lập ở các quốc gia ASEAN một công cụ chính trị - pháp lý nhằm gây mất ổn định chính trị, bạo loạn lật đổ... Đây là “ý tưởng” chính trị sâu xa của họ.

Mặc dù các NGOs dân chủ nhân quyền ở nhiều quốc gia trong Hiệp hội và ở cả phương Tây phản đối, rút cuộc các nhà lãnh đạo 10 nước ASEAN đã ký văn bản này với đầy đủ các nội dung và các nguyên tắc như đã giới thiệu ở trên. Có thể nói, việc các quốc gia ASEAN ký thông qua văn kiện chính trị quan trọng này có ý nghĩa lớn đối với sự củng cố và phát triển của khối, nhất là Tuyên ngôn đã tạo ra tiền đề trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người của người dân:

Trước hết, Tuyên ngôn là một bước tiến lớn trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong khối. Đây là một bước đi tất yếu thể hiện cam kết của các thành viên ASEAN đối với một mục tiêu quan trọng được ghi trong Hiến chương ASEAN.

Thứ hai, sự đồng thuận của các quốc gia đối với Tuyên ngôn, bất chấp sự phản ứng của nhiều tổ chức nhân quyền nội khối và của cả phương Tây trên một lĩnh vực tế nhị, phức tạp là một thắng lợi chính trị của mỗi quốc gia cũng như của cả Hiệp hội.

Thứ ba, việc thông qua văn kiện này là một bước đi tích cực không chỉ đối với việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người mà còn ngăn chặn âm mưu lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia./.

Theo QĐND

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất