Nói theo ngôn ngữ đời thường, chiến tranh khí đốt là cuộc chiến giành giật “miếng cơm manh áo” của người khác nên những kẻ đi tranh giành hay cướp đoạt tài nguyên năng lượng của quốc gia khác thường phải che đậy dưới những nguyên cớ khác nhau xem ra rất “vì người khác” và rất “nhân đạo” như “chống khủng bố”, “can thiệp nhân đạo”, “xúc tiến dân chủ”, “bảo vệ nhân quyền” v.v và v.v.
Cuộc khủng hoảng chính trị vừa bùng phát ở Ma-kê-đô-nhi-a được các phương tiện truyền thông phương Tây mô tả là xuất phát từ hành động của phe đối lập cáo buộc nhiều “tội danh” cho nhà cầm quyền nước này như “gian lận trong bầu cử”, “tham nhũng”, “vi phạm nhân quyền”, “nghe lén điện thoại đối thủ chính trị” v.v, nghĩa là vẫn lặp lại y nguyên những khẩu hiệu mà phe đối lập đã từng sử dụng trong các cuộc “cách mạng màu” ở Gruzia (2003), U-crai-na (2004, 2013) và các nước vừa trải qua “màu xuân Arập”.
Trên thực tế, cuộc khủng hoảng chính trị ở Ma-kê-đô-nhi-a là biến thể một cuộc một cuộc chiến tranh khí đốt, mở đầu từ “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” ở Ap-ga-ni-xtăng năm 2001, sau đó là ở Xy-ri và hiện nay ở U-crai-na.
Điều đáng chú ý là đứng đằng sau chỉ đạo những cuộc “cách mạng màu” này vẫn là các tổ chức được gọi là “phi chính phủ” nhưng thực chất là sử dụng ngân sách của chính phủ để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia nhằm tránh tiếng xâm lược hay xâm phạm chủ quyền của nước khác. Còn đa số các quốc gia bị nước khác “can thiệp nhân đạo” để tiến hành cuộc chiến tranh khí đốt này đều rơi vào tình cảnh bất ổn triền miên và khủng hoảng kinh tế-xã hội như Ap-ga-ni-xtăng, Xy-ri hay U-crai-na.
Phần I: Chiến tranh khí đốt ở Ap-ga-ni-xtăng
Theo Cơ quan tình báo Pháp, trước khi xẩy ra vụ khủng bố ngày 11-9-2001, các tập đoàn dầu mỏ và khí đốt của Mỹ đã từng rất quan tâm tới đề án xây dựng đường ống dẫn khí đốt có tên là “đề án TAPI”, tên gọi hợp thành từ chữ cái đầu của tên 4 nước tham gia là Tuôc-me-ni-xtăng -Ap-ga-ni-xtăng-Pa-ki-xăng-In-đia, trị giá 7,6 tỷ USD, để xây dựng tuyến đường ống dẫn khí đốt kéo dài 1.040 dặm. Năm 1995, hai nước Trung Á là Turmenistan và Pakistan đã ký biên bản ghi nhớ tham gia đề án này.
Theo dự kiến, TAPI có khả năng chuyển tải mỗi năm 33 tỷ m3 khí đốt và sẽ được khởi công xây dựng tại mỏ khí đốt “Dauletabad” của Tuôc-me-ni-xtăng, đi qua Ap-ga-ni-xtăng và Pa-ki-xăng và cuối cùng sẽ đến thành phố Pha-di-ca ở Tây Bắc Ấn Độ.
Năm 1997, nghĩa là 2 năm sau khi ký kết biên bản ghi nhớ giữa Tuôc-me-ni-xtăng và Pa-ki-xăng, Công ty “Central Asia Gas Pipeline Ltd” dưới sự chỉ đạo của công ty “Unocal” của Mỹ đã đón đoàn đại biểu của Phong trào Ta-li-ban ở Ap-ga-ni-xtăng tới Văn phòng của “Unocal” ở Hâu-xtơn (Houston, Mỹ) để thảo luận về việc tham gia đề án này. Hai công ty “Unocal” và “Enron” với sự giúp đỡ của Chính phủ Mỹ nỗ lực thuyết phục để Ta-li-ban chấp nhận xây dựng đường ống này đi qua lãnh thổ Ap-ga-ni-xtăng.
Trước thời điểm đó, các nguồn dầu mỏ và khí đốt ở Trung Á do Nga kiểm soát. Vì thế Chính phủ của Tổng thống G.W.Bu-sơ muốn xoay chuyển tình hình này. Dưới thời cầm quyền của Tổng thống G.W.Bu-sơ, công ty “Unocal” tiếp tục nhập cuộc cạnh tranh với Nga. Tháng 2-2001, dưới sự giúp đỡ của nhiều quan chức chính phủ nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn, trong đó có Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ Ri-sac Ac-mi-ta-giơ (Richard Armitage), vốn là người vận động hành lang cho các lợi ích của “Unocal”, công ty này tiếp tục thuyết phục Ta-li-ban ủng hộ đề án khí đốt của Mỹ ở Trung Á. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán này đã thất bại.
Trong tình thế đó, Mỹ đã đưa ra tối hậu thư đối với Ta-li-ban. Theo đề xuất của phía Mỹ, trước ngày 11/9/2001-nghĩa là trước vụ khủng bố nhằm vào nước Mỹ, Ta-li-ban được quyền lựa chọn một trong hai khả năng: sẽ được nhận “tấm thảm bằng vàng” nếu đồng ý cho Mỹ lắp đặt đường ống chuyển khí đốt từ các mỏ ở Trung Á đi qua lãnh thổ Ap-ga-ni-xtăng, còn nếu không đồng ý thì Ta-li-ban sẽ phải nhận các trận ném bom rải thảm.
Ta-li-ban đã không chịu nhận “tấm thảm bằng vàng”. Vì thế, Mỹ quyết định loại bỏ Ta-li-ban. Tại Hội nghị G-8 vào tháng 7/2001 ở Giơ-noa (Italia), các nhà ngoại giao phương Tây đã biết được ý định của chính quyền Mỹ dưới thời Tổng thống G.W.Bu-sơ quyết định lật đổ chế độ Ta-li-ban trước cuối năm 2001. Giới ngoại giao Pa-ki-xăng cũng khẳng định điều đó. Vì thế, vụ khủng bố ngày 11-9-2001 giống như “một dịp may có một không hai” đối với các tập đoàn dầu mỏ và khí đốt của Mỹ xúc tiến quá trình thực hiện kế hoạch loại bỏ Ta-li-ban.
Cũng chính vì thế, đến này đã qua 14 năm, vụ khủng bố 11-9-2001 vẫn phủ bức màn bí ẩn. Không ít chuyên gia trong giới phân tích ở Mỹ và phương Tây vẫn cho rằng sự kiện này là một kiểu “khổ nhục kế” của một số thế lực để mở đường cho Mỹ thực hiện chiến lược ném bom rải thảm nhằm vào Ta-li-ban-kẻ đã cả gan dám từ chối hợp tác với Mỹ xây dựng tuyến đường ống dẫn khi đốt từ Trung Á đi qua lãnh thổ Ap-ga-ni-xtăng.
Những chuyên gia này nhận thấy một chuyện kỳ lạ: chỉ một ngày sau vụ khủng bố kinh hoàng này, trong khi chưa cần điều tra để xác minh ai là kẻ chủ mưu và thực thi, Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ đã ngay lập tức tuyên bố trước toàn thế giới rằng mạng lưới khủng bố “Al-Qaeda” ở Ap-ga-ni-xtăng là kẻ chủ mưu và mấy ngày sau chính ông đã phát động “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” nhằm vào Ap-ga-ni-xtăng, nơi được Oa-sinh-tơn nhận định là “Ta-li-ban đang chứa chấp trùm khủng bố Ô-xa-ma Bin La-đen (Osama Bin Laden), chỉ huy số 1 của “Al-Qaeda”.
Tuy nhiên, các chuyên gia phân tích tập trung vào một chi tiết rất đáng chú ý: Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ phát động “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” chứ không phải là “cuộc chiến nhằm trả đũa Al-Qaeda”-người được coi là chủ mưu gây ra vụ khủng bố 11-9. Từ đây, các chuyên gia phân tích đặt câu hỏi nghi vấn: vì sao Mỹ không phát động cuộc chiến nhằm tiêu diệt “Al-Qaeda” mà lại là phát động “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” để từ đó phân chia các nước thành hai phe như thể trong một cuộc chiến tranh thế giới mới, theo đó “ai chống khủng bố là đi theo Mỹ, còn ai chứa chấp hoặc ủng hộ khủng bố là chống lại Mỹ”. Chính vì sự phân chia thế giới thành hai phe này của Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ nên nhiều chuyên gia đã nhận định, cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố do Mỹ phát động đã mở đầu Chiến tranh thế giới lần thứ III.
Một chi tiết khác cũng rất quan trọng: “Al-Qaeda” là tổ chức được Mỹ dựng lên, nuôi dưỡng và huấn luyện để làm lực lượng chống lại Quân đội Liên Xô hiện diện ở Ap-ga-ni-xtăng trong những năm 1980. Tháng 2-1979, theo sáng kiến của Z.Brê-din-xki (Brezinski), Cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Mỹ vào thời gian đó, Tổng thống Gi=mi Ca-tơ đã ký một chỉ thị bí mật sử dụng “Al-Qaeda” ở Ap-ga-ni-xtăng phục vụ ý đồ chiến lược của Mỹ ở quốc gia này.
Năm 1980, khi Liên Xô đưa quân vào Ap-ga-ni-xtăng, Mỹ đã sử dụng “Al-Qaeda” tấn công các lực lượng của Quân đội Liên Xô đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Chính phủ Ap-ga-ni-xtăng chống lại lực lượng Hồi giáo cực đoan. Như vậy, “Al-Qaeda” đã từng là đồng minh chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến chống lại Liên Xô ở Ap-ga-ni-xtăng, đến năm 2001 bỗng nhiên trở thành kẻ chủ mưu gây ra vụ khủng bố kinh hoàng nhằm vào nước Mỹ vào ngày 11-9. Một tình tiết đến nay vẫn gây ra nhiều cuộc tranh luận trong giới nghiên cứu trên thế giới.
Mãi 2 năm sau, Ủy ban hỗn hợp Thượng viện và Hạ viện Mỹ được thành lập để điều tra về nguyên nhân và thủ phạm gây ra vụ khủng bố bí ẩn này này. Nhưng thật bất ngờ, Nhà Trắng đã không công bố đầy đủ kết quả điều tra. Phát biểu tại một cuộc họp báo ngày 24-7-2003, Thượng nghị sĩ Bôp Gra-ham (Bob Graham), cựu Chủ tịch ủy ban tình báo Thượng viện và là một trong những ứng cử viên tranh cử Tổng thống của Đảng Dân chủ, chỉ trích Nhà Trắng đã ngăn cản việc công bố các thông tin điều tra về vụ 11-9-2001.
Vì thế, quyết định này của chính quyền Mỹ dưới thời Tổng thống G.W.Bu-sơ không công bố kết quả điều tra vụ 11-9 làm dấy lên những lời chỉ trích mạnh mẽ của nhiều nghị sĩ Mỹ. Từ đây, một câu hỏi nghi nữa được đặt ra: vì sao Nhà Trắng lại ngăn cản việc công bố kết quả điều tra về vụ 11-9-2001? Phải chăng, sự thật về kẻ chủ mưu gây ra vụ khủng bố này không phải là “Al-Qaeda” như tuyên bố chính thức của Oa-sinh-tơn?
Đến thời điểm này, “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” do Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ phát động sau sự kiện 11-9 đã trải qua hơn 14 năm, tiêu tốn của nước Mỹ gần 3.000 tỷ USD và khiến hàng ngàn binh sỹ Mỹ thiệt mạng. Trong thời gian đó, thế giới chứng kiến một nghịch lý chưa có lời giải: Mỹ càng nỗ lực “chống khủng bố”, thì số lượng các vụ khủng bố càng tăng thêm về quy mô và tính chất nghiêm trọng, nhằm vào nhiều đối tượng khác nhau trên khắp các châu lục. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, một tổ chức khủng bố cực kỳ tàn bạo ngang nhiên tuyên bố thành lập một nhà nước riêng, mang tên “nhà nước Hồi giáo” (IS), ngay trước tầm ngắm của tàu sân bay cùng với nhiều tàu chiến khác của Mỹ ở Vùng Vịnh cùng với hàng ngàn quân và cố vấn quân sự Mỹ ở I-răc.
Chỉ có một sự thật ai cũng nhìn thấy rõ: các công ty dầu mỏ và khí đốt của Mỹ đã đạt được mục đích của họ đặt ra ở Ap-ga-ni-xtăng: sau khi Mỹ tiến hành “cuộc chiến chống khủng bố” lật đổ chế độ cầm quyền Ta-li-ban ở Ap-ga-ni-xtăng, ông Ha-mit Ca-dai (Hamind Kazai)-một trong các chuyên gia tư vấn hàng đầu của công ty dầu khí “Unocal”, trở thành Tổng thống Ap-ga-ni-xtăng. Chính quyền của Tổng thống Ha-mit Ca-dai ngay lập tức chấp nhận đề án xây dựng tuyến đường ống TAPI, mở đường cho Mỹ khai thác các mỏ khí đốt khổng lồ ở Trung Á, cạnh tranh ngang ngửa với Nga, Trung Quốc và I-ran, trong đó riêng Tê-hê-ran đang có kế hoạch xây dựng tuyến dẫn khí đốt đi từ I-ran sang Pa-ki-xăng và Ấn Độ./.
Phần tiếp theo: Chiến tranh khí đốt ở Xy-ri; Ma-kê-đô-nhi-a-
Điểm nhấn trong cuộc chiến tranh khi đốt ở U-crai-na sẽ tiếp tục đăng tải
Đại tá PGS-TS Đồng Xuân Thọ