(TG) - Lì xì, đó là một từ đã rất quen thuộc và được nhắc đến nhiều mỗi khi vào dịp Tết đến xuân về.
Ít ai biết rằng, từ này cũng mới chỉ xuất hiện (và càng ngày càng trở nên đắc dụng với tần số cao tới mức đáng ngạc nhiên) trong giao tiếp tiếng Việt vào khoảng hơn hai chục năm trở lại đây mà thôi. Bây giờ, mỗi khi có khách đến nhà ai chúc Tết là bọn trẻ lại mỏi mắt chờ đợi “tiết mục” lì xì. Chúng háo hức đến mức bỏ ăn bỏ chơi, chỉ mong sao khách đừng lơ đãng mà “quên” mình. Mà khách thì quên sao được nhiệm vụ trọng đại này? Chưa rút ví “phát chẩn” thì coi như chưa thể yên tâm chào gia chủ ra về được đâu đấy.
Nhưng mà đâu chỉ có bọn trẻ, ngay cả người lớn chúng ta cũng rất muốn được “lì xì” như bọn con nít vậy. Có môt ma lực nào làm cho từ này (với hai âm tiết nghe rất kì, rất lạ) lại có sức hấp dẫn đến vậy? Suốt mọi nơi, từ nam chí bắc, từ nông thôn đến thị thành, lì xì thưởng lộc đã trở thành “chuyện thường ngày ở huyện”. Nghe thì vui nhưng đâu phải ai cũng vui khi nhắc đến lì xì. Bởi xét trong mối quan hệ cho và nhận thì người nhận thì mừng như… bắt được tiền còn người cho lại lo đến mất ăn mất ngủ. Bởi việc cho ở đây nhiều khi đã vượt ra ngoài cái ngưỡng của sự cho thông thường trong cuộc sống.
Chắc mọi người sẽ hỏi: Không rõ, “cái anh chàng” lì xì này có từ đâu ấy nhỉ? Bởi trước đây, đó chỉ là một tính từ, chỉ ai đó có tính cách lầm lì, kém hoạt bát. Ví dụ: Nó cứ ngồi lì xì cả ngày như vậy chẳng nói năng câu nào; Trông mặt nó lì xì, sau này lớn lên chắc nó đần (Nam Cao). Dĩ nhiên, lì xì ta đang nói đây có tư cách là một từ mới xuất hiện trong kho từ vựng của tiếng Việt toàn dân (trong vòng hơn hai chục năm, kể từ khi đổi mới (khoảng từ năm 1990) tiếng Việt đã bổ sung chừng 6.000 từ mới). Từ điển tiếng Việt (Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2020) xếp lì xì vào động từ, phương ngữ và giải nghĩa là “cho [trẻ em] tiền mừng tuổi vào dịp Tết Nguyên Đán”. Có lẽ do ban đầu từ này chỉ thấy xuất hiện ở miền Nam (chủ yếu ở vùng Chợ Lớn - Sài Gòn trước đây), sau này mới lan dần ra toàn quốc. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Chợ Lớn là trung tâm buôn bán có nhiều người Hoa sinh sống. Lì xì (cũng có người đọc lầy xì) là cách nói Việt hoá âm Quảng Đông (Trung Quốc), đọc chính âm Hán - Việt là lợi thị (điều tốt lành, (có) lợi lộc, (có) vận may, vận tốt...). Tương truyền là từ đời Đường, nhà vua khi nhận lễ vật của khách bốn phương cúng tiến, thường bớt một chút quà đó tặng lại khách (như tục lại quả trong đám ăn hỏi ở ta vậy) gọi là lộc vua. Thói quen đó lan rộng ra các gia đình quan lại, quyền quý, khá giả. Nhưng việc bớt lại lễ vật nhiều khi cũng bất tiện. Bởi có phải lễ vật nào (như trâu gà dê lợn, vàng bạc, ngà voi...) cũng “xẻo” ra một chút được đâu. Vả lại lễ vật cũng nhiêu khê, cồng kềnh, khó gói, khó mang. Nên người ta liền “cải tiến”, cho một chút tiền vào “phong bao” tặng lại. Một cách đáp lễ tiện cả đôi đường. Rồi thói quen này trở thành phong tục dân gian nhân lễ tết nói chung.
Ở Việt Nam ta, tục mừng tuổi cũng có từ lâu. Thường thì nhân dịp Tết Nguyên Đán, ông bà cha mẹ hay tụ tập con cháu nhân sáng mồng một Tết, chúc tụng và mừng tuổi cho mỗi người một chút tiền (tiền chinh, bằng kim loại, trước đó được gói chung trong túi vải điều và đặt trên bàn thờ, thắp hương). Đó là một cử chỉ lấy “khước” cho con cháu khoẻ mạnh, học hành giỏi giang, làm ăn phát đạt, tài lộc dồi dào. Âu cũng là một phong tục đẹp trong dân gian (Theo Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục).
Nhưng giờ đây chuyện lì xì, mừng tuổi đã biến tướng đi khá nhiều. Tất cả các hình thức phong bao (mừng tuổi, mừng thọ, mừng nhà mới, mừng lên chức, lên lương, mừng sinh nhật,...) người ta đều lì xì hết (Và rõ ràng, nếu dùng từ mừng tuổi sẽ hẹp hơn nhiều về phạm vi sử dụng). Dĩ nhiên là chẳng có ai “hâm đơ” lại đi lì xì bằng tiền xu cả. Tiền lẻ một, hai ngàn cũng hầu như không dùng. Chí ít cũng từ năm, mười, hai mươi ngàn trở lên. Với nhiều trường hợp (như lì xì cho bọn trẻ), người ta vẫn có thói quen “đưa thẳng”. Người cho, người nhận, chủ và khách công khai chứng kiến số tiền rút ví. Nhưng nhiều trường hợp, để cho sang cho đẹp, và cũng để tế nhị, người ta lại cho trước vào các bao lì xì in sẵn (sau khi đã cân nhắc kĩ là nên đặt bao nhiêu cho phải). Độ dày mỏng của phong bao cũng tỉ lệ thuận với nhu cầu thực tế quan hệ và tính quan trọng của “vấn đề”. Lì xì bằng “Việt Nam đồng” và bằng ngoại tệ, đều có cả. Lì xì năm, mười ngàn VND cũng có. Trăm ngàn cũng có. Nhưng cũng chẳng hiếm bao lì xì “cõng” tới vài trăm hay cả ngàn USD (Thế này thì cả Tây lẫn Tàu đều phải “chào thua”). Yên tâm, có nặng “đô” thì việc lớn mới “nhẹ” đường đi được. Con đường đi vòng (qua phong lì xì) có khi lại lại là con đường ngắn nhất. Lôgich cuộc sống thế mà. Chẳng đi đâu mà thiệt!
Vì vậy, cái bao lì xì đỏ chói, in hình ông Phúc, ông Thọ hay chú hài đồng bằng nhũ vàng kia theo thời gian đã mất dần ý nghĩa nhân văn thiêng liêng của nó. Chả nói gì các sếp, tuy tay đỡ gói quà nhưng mắt vẫn liếc nhanh về phong “lì xì” đặt ý tứ cạnh chai rượu, tấm thiệp. Trẻ con bây giờ cũng chả kém cạnh gì. Chúng nhanh chóng xếp hàng chào khách (không thiếu một ai) và sau đó nhanh chóng lui về chỗ khuất để “kiểm kê” tài sản tại trận. Ý nghĩa nào chưa biết, chỉ biết rằng tự nhiên chúng được hưởng một khoản tiền “kếch xù” (Chúng có biết đâu nếu không vì bố mẹ chúng thì vị khách sộp kia không bao giờ “chơi đẹp” đến vậy). Ra giêng cứ gọi là ăn chơi “xả láng” nghe! Còn bao lì xì xinh xinh tội nghiệp kia thì ngay lập tức, bị quẳng tắp lự vào xó nhà rồi lặng lẽ nằm chung với lá bánh chưng, vỏ hộp kẹo, nút chai... trong sọt rác.
Ôi, bây giờ đúng là đã có tới “ngàn lẻ một” chuyện lì xì đó.
Xuân sang Tết đến, lì xì
Phong bao đỏ chói đâu vì cầu may
Mà sau một cái bắt tay
Ấy lời “thông điệp” việc này, việc kia
Tội nghiệp thay phong lì xì
Bao nhiêu ý nghĩa biến đi đằng nào…
TG